Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Quảng Liên

10/04/201311:22(Xem: 11254)
Hòa Thượng Thích Quảng Liên

htthichquanglien

Hòa Thượng Thích Quảng Liên
(1926-2009)



GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TỔ ĐÌNH TU VIỆN QUẢNG ĐỨC

****

CÁO BẠCH

Ban Đại Diện Quận Hội Phật Giáo Quận Thủ Đức
Môn Đồ Pháp Quyến Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức

Chân thành kính báo:
Đức Đại Lão Hoà Thượng Thượng QUẢNG Hạ LIÊN
Viện chủ Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức
Chứng minh Ban Đại Diện Phật Giáo Quận Thủ Đức – Q.2 – Q.9
Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Pháp Sự
Nguyên Hiệu Trưởng Trường Bồ Đề
Xuất thế năm Bính Dần ( 1926 ) tại Vịnh Xuân Đài – Huyện Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên.

Hoà thượng đã an nhiên thu thần thị tịch vào lúc 12h15 ngày 28 tháng 05 năm 2009 ( nhằm ngày 05 tháng 05 năm Kỷ Sửu ), tại Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức.

Trụ thế 84 năm – Hạ lạp 60 năm
-
Lễ nhập kim quan được long trọng cử hành vào lúc 08h00 ngày 29 tháng 05 năm 2009 ( nhằm ngày 06 tháng 05 năm Kỷ Sửu )
- Kim quan được tôn trí tại Giảng đường Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức – Số 33 Đường Đặng Văn Bi – P. Trường Thọ – Q. Thủ Đức – Tp. HCM.
- Lễ tưởng niệm và cung tống kim quan nhập bảo tháp được cử hành vào lúc 07h00 ngày 03 tháng 06 năm 2009 ( nhằm ngày 11 tháng 05 năm Kỷ sửu ) tại khuôn viên Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức.

Ban Tổ Chức Tang Lễ và Môn Đồ Pháp Quyến

Đồng Kính Báo


CHÙA LIÊN HOA
image001
9561 Bixby Ave., Garden Grove, CA 9284, U.S.A.
Tel.: (714) 636-7725
__________________________________

Môn Ðồ Pháp Quyến

CÁO PHÓ

Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật

Môn Ðồ Pháp Quyến thành kính báo tin đến Chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức Tăng Ni, các tổ chức đoàn thể Phật giáo và toàn thể quý Phật tử:

Hòa Thượng thượng Quảng hạ Liên

Bổn Sư của chúng tôi đã thuận thế vô thường, thâu thần thị tịch 11:45’ trưa, ngày 28 tháng 5 năm 2009 (nhằm ngày 05 tháng 05 năm Kỷ Sửu) tại Tu Viện Quảng Ðức, Thủ Ðức, Sàigòn Việt Nam. Thế thọ 84, Lạp thọ 64.

Lễ thọ tang được cử hành vào lúc:

3 giờ chiều, Chủ Nhật, ngày 31 tháng 05 năm 2009
tại CHÙA LIÊN HOA

Nhất tâm đảnh lễ Giác linh Hòa Thượng Bổn Sư Cao đăng Phật quốc, hồi nhập Ta bà hóa độ chúng sinh.

Nay Cáo Phó,

Garden Grove, ngày 27 tháng 05 năm 2009
Môn Ðồ Pháp Quyến,

Sa Môn Thích Chơn Thành



htthichquanglien

TIỂU SỬ

ĐẠI LÃO HOÀ THƯỢNG THƯỢNG QUẢNG HẠ LIÊN

VIỆN CHỦ TỔ ĐÌNH TU VIỆN QUẢNG ĐỨC

  1. Thân thế:


Đại Lão Hoà Thượng Pháp danh Thượng Quảng Hạ Liên, Tự Bi Hoa, Hiệu Trí Hải thế danh Nguyễn Văn Chính, sinh năm 1926 – Bính Dần tại Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên, trong một gia đình túc nho, tiểu thương, giàu lòng kính tin tam bảo, Hoà thượng là con thứ 8 trong gia đình với 09 Anh Chị Em được thân phụ là Cụ Ông Nguyễn Văn Phân – PD. Nhựt Minh và thân mẫu là cụ bà Võ Thị Dưỡng – PD. Nhựt Sanh giáo dục trong khuôn phép truyền thống, nề nếp gia phong trên nền tảng giáo lý Phật đà, là chất liệu để di dưỡng tứ vô lượng tâm, hình thành nơi ngài tinh thần hướng thượng, hướng thiện.

Aáu thời, ngài được song thân cho học ở Trường Tiểu học Quận, vốn sẵn tính thông minh, thiện nết, được Thầy Bạn thương yêu, ngài dốc lòng học tập mở rộng kiến thức. Sau một thời gian, ngài được gởi đi học trường Pháp Việt Tỉnh lỵ Sông Cầu, đây là cơ duyên để thăng tiến tự thân, cũng chính thời gian này Hoà thượng tham gia Đoàn Đồng Aáu Phật Tử, thường lui tới viếng thăm, tu học tại Tỉnh Hội Phật học Phú Yên, khuôn Tịnh Độ địa phương. Chí nguyện xuất trần thượng sĩ cũng bén rễ từ đây, khơi dậy trong ngài chủng tử thiện lành từ vô lượng kiếp.

  1. Thời kỳ xuất gia tu học:


Túc duyên sẵn có, năm 1940 tại Chùa Vĩnh Long ngài được hội kiến với Cố Đại Lão Hoà Thượng Thượng Vĩnh Hạ Thọ, Hòa thượng được Ngài Vĩnh Thọ trao truyền Tam quy ngũ giới với pháp danh là Quảng Liên và nhân cơ duyên hạnh ngộ này Hòa thượng đã trình bày tâm nguyện xuất gia của mình được Ân sư hứa khả, nhưng song thân không cho phép nên sở nguyện của Ngài chưa được thành tựu. Trước tinh thần cầu đạo giải thoát, tâm nguyện tha thiết được trở thành trưởng tử Như Lai của Ngài, đến năm 1941 Hoà thượng Thượng Vĩnh Hạ Thọ hoan hỷ cử hành nghi thức thế phát cho Ngài, nhưng không cạo tóc để chờ sự cho phép của song thân. Và Hoà thượng được Bổn Sư ban cho Pháp hiệu là Trí Hải, Tự là Bi Hoa.

Thế rồi thắng duyên lại đến, mùa trăng tròn giữa thu năm 1942, khi Chư Tăng Tỉnh Phú Yên do Ngài Quảng Đạt hướng dẫn vào nam tu học, thì Hoà thượng cũng chính thức xuống tóc và theo đoàn khất sĩ lên đường thực hiện hạnh nguyện của mình. Với hình ảnh những chàng thanh niên hiếu học, sống thiện lành, phát tâm dấn thân cầu đạo giải thoát đã làm xúc động lòng người, Ông Tỉnh Trưởng, và Bố Chánh Tỉnh Phú Yên mở tiệc chia tay và cũng nói lên lòng quý mến. Dòng Tam Giang êm đềm trôi chảy mang theo tâm nguyện của ngài, ánh trăng giữa thu soi rọi con đường tìm chân lý mà Hoà thượng đã phát tâm lập nguyện từ thuở ấu thời nay thành tựu.

Bước vân du của Ngài từ Ga Chí Thạnh, đến Nha Trang, Phan Thiết, Sài Gòn và cuối cùng là Phật học đường Lưỡng Xuyên với 4 năm dày công tu học, hành trì. Trong thời gian này, Ngài được truyền Sa Di Giới.

Năm 1947, Ngài về trụ tại Chùa Phật Quang, Trà Ôn vài tháng sau đó về tu học tại Phật học đường Liên Hải – Chợ Lớn, Ngài phát tâm đảm nhiệm công việc phụ trách tài chánh, chăm lo kinh tế cho Phật học viện. Đến giữa năm 1947, nhận thấy thời thế không yên nên Ngài cùng với Hòa thượng Trí Minh kết nghĩa, cùng nhau lên đường ra Huế học Bậc Cao Đẳng Phật học tại Báo Quốc – Huế.

Sau 2 năm tham học tại đất thần kinh qua đi, năm 1949 Ngài trở về Liên Hải Phật học đường tiếp tục tu học, và tại giới đàn do Phật học đường tổ chức ngài đăng đàn thọ cụ túc giới do Cố Đại Lão Hoà thượng Thượng Liễu Hạ Thiền đương vi đàn đầu Hoà thượng truyền trao giới pháp.

Năm 1951, Phật giáo Việt Nam hoà mình cùng Phật giáo Thế giới, Ngài được Tổng Trị Sự Phật Giáo Việt Nam cử đại diện cho Hội Phật học Nam Việt cùng với 2 ngài Hoà thượng Minh Châu – Đại diện cho Hội Phật Giáo Trung Việt, Hoà Thượng Quảng Độ – Đại diện cho Phật Giáo Bắc Việt đi du học tại Trường Phật Giáo Thế Giới Colombo – Tích Lan, Trường Đại học Quốc Gia KanDy, Tích Lan và Ngài tốt nghiệp Cử nhân năm 1956.

Cuối năm 1956, Hoà thượng nhận được học bổng của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ liên kết với Cơ quan văn hoá Hoa Kỳ tiếp tục xuất ngoại học tại Đại học Yale, một trường Đại học danh tiếng của Mỹ Quốc. Đến năm 1960, Hoà thượng trình luận án tốt nghiệp chuyên ngành nghiên cứu về vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá, . . . Đông Nam Á, và được công nhận học vị Tiến Sĩ.

Đây là cả một quá trình mà Ngài đã dày công huân tập, thăng tiến tự thân để góp phần phụng sự đạo pháp – phụng sự chúng sanh sau này.

3.Thời kỳ hành đạo:


* Công Hạnh Hoằng Dương Chánh Pháp:

Công hạnh hoằng dương chánh pháp của Cố Đại Lão Hoà Thượng là dấu son in đậm trong trang sử Phật giáo, dân tộc mà hơn 50 năm ứng thân giữa cõi phàm trần Ngài đã thể hiện trọn vẹn qua từng chức vụ, từng vai trò khác nhau, trong từng lĩnh vực khác nhau nhưng hiện lên rõ nét nhất ngài là một nhà Giáo dục mô phạm, sự nghiệp giáo dục được ngài tâm niệm thực hiện suốt cuộc đời mình.

Năm 1950, Ngài cùng với Cố HT. Thiện Hoà, HT. Quảng Minh, Ngài Huyền Dung, Ngài Trí Huệ thành lập Phật học đường Nam Việt, và Hoà thượng cùng với Cụ Chánh Trí – Mai Thọ Truyền, thành lập Hội Phật học Nam Việt, Ngài được cử làm Trưởng Ban Hoằng Pháp đầu tiên của Hội. Đến năm 1951, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt ra đời cũng ghi nhận công đức sáng lập của Hoà thượng. Đây là những hội Phật học đầu tiên tại Miền Nam được tổ chức quy cũ, thực hiện công cuộc Chấn Hưng Phật Giáo.

Sau khi được công nhận học vị Tiến sĩ, Hoà thượng trở về Việt Nam tiếp tục công hạnh hoằng dương chánh pháp, với tinh thần “ nhiêu ích hữu tình, lợi lạc quần sanh”, trong giai đoạn 1960 – 1975 ngài được mời giữ chức vụ Cố Vấn cho Ủy ban Văn hoá Châu Á, Giáo sư Đại học Văn Khoa.

Năm 1963, Mùa Pháp Nạn của Phật giáo Việt Nam, Hoà thượng tham gia Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật Giáo trong vai trò Ủy viên Dân Sự thực hiện nhiệm vụ tổ chức nam nữ thanh niên, Sinh viên, học sinh để tranh đấu chống lại bạo quyền nhà Ngô để bảo vệ Phật Pháp, Hoà thượng bị bắt từ đêm 20/08 đến ngày 24/10/1963 mới được về Chùa.

Cuối năm 1963, đầu năm 1964 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Ngài giữ chức vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Pháp Sự ( Văn Hoá – Giáo dục – Xã hội ), ngài sáng lập và xây dựng hệ thống Trường Bồ Đề trên cả nước và giữ nhiệm vụ Hiệu Trưởng Giám Đốc Trung học Bồ Đề Sài Gòn – Chợ Lớn ( nay là Trường Đồng Khởi )

Năm 1965, Đại Lão Hoà thượng đại diện GHPGVNTN tham dự Đại hội thành lập Giáo Hội Tăng Già Thế Giới tại Colombo ( Tích Lan ) và được cử làm Ủy viên Giáo dục Phật Giáo Thế Giới. Đến năm 1970 ngài tham dự Hội nghị thành lập Hiệp Hội Phật Giáo Thế Giới tổ chức tại Hàn Quốc, Hoà thượng được mời giữ chức vụ Ủy viên Giáo dục. Cùng năm đó, Hòa thượng dự Hội nghị Giáo sư tự do Thế giới tại Colombo ( Tích Lan ), và được nhận chứng chỉ Giáo sư Quốc tế.

Với tâm nguyện xây dựng nền hoà bình dân tộc, đem lại an lạc cho đồng bào thân thương, nên năm 1965 Ngài sáng lập được mời giữ chức vụ Chủ tịch Hoà Bình.

Từ năm 1964 đến năm 1975 tròn một thập niên ngài đóng góp nhiều cho sự nghiệp giáo dục trong nhiều vai trò như: Cố vấn Hội Việt Mỹ, Chủ tịch Hội đồng tư thục Việt Nam, Ủy viên Hội đồng cải tổ cập nhật hoá chương trình giáo dục, Đại học Văn Khoa Sài Gòn, Giáo thọ sư tại các Giảng đường Phật học.

Sau năm 1975, vì tuổi cao sức yếu ngài lui về an trú tại Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức và tiếp tục công hạnh của mình bằng việc trước tác, biên phiên dịch tam tạng kinh điển, hoằng truyền giáo pháp Thích tôn, trong giai đoạn này Ngài được cung thỉnh Chứng Minh Ban Trị Sự Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM, Chứng minh Ban Đại Diện Phật Giáo Quận Thủ Đức, Quận 2, Quận 9.

Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2003 là giai đoạn mà Ngài thực hiện những chuyến hành hương, chiêm bái, và hoằng pháp tại các nước Châu Á, Châu Âu. Đây là thời điểm mà pháp âm của Ngài đồng vọng trên khắp năm Châu.

* Công đức khai sơn tạo tự – Tiếp Tăng độ chúng – Truyền trao giới pháp:

Với bản hoài của Người xuất gia, suốt hơn 70 năm tu học và hành đạo ngài đã thực hiện thành tựu công đức khai sơn tạo tự, tiếp Tăng độ Chúng – Truyền trao giới pháp.

Năm 1962, Ngài về đất Thủ Đức khai sơn Chùa Liên Hải làm noi để tịnh tu.

Năm 1967 ngài khai sơn Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức làm cơ sở đào tạo Tăng tài, hoằng dương chánh pháp, trãi qua nhiều giai đoạn trùng tu đến nay Tổ Đình là ngôi Tam Bảo trang nghiêm, là thắng tích được Tăng, Ni, Phật tử trong ngoài nước biết đến.

Dù nhiều Phật sự, tuổi cao sức yếu nhưng ngài không bao giờ xao lãng việc trùng hưng các ngôi Tam bảo như: Trùng tu Chùa Quảng Đạt – Phú Yên, khai sơn Tịnh Xá Quảng Liên, trùng tu các Tự viện trực thuộc Tổ Đình. Đặc biệt là góp phần trùng tu, xây dựng Chốn Tổ Trà Cú, Chùa Hoa Yên, Thắng Tích Yên Tử.

Một trong những phật sự mà Hoà thượng thực hiện thành tựu đó là phật hoá gia đình, trong đó tiếp độ 2 Anh là HT. Chơn Ngộ, TT. Chơn Điển xuất gia cùng các cháu tiếp bước con đường của ngài phụng sự Tam bảo, hoá độ chúng sanh.

Đức độ của Ngài lan toả mười phương, Đại Lão Hoà thượng là vị ân sư, y chỉ sư của hơn 200 tăng ni đang là những sứ giả Như Lai trong và ngoài nước, là vị Thầy khả kính của hàng ngàn Phật tử luôn tâm niệm nương đức hạnh của Ngài để tu học, cần cầu giải thoát. Ngài còn chăm lo đến mầm non của Đạo Pháp bằng tất cả đức từ, Hòa thượng dang rộng vòng tay, thương yêu, chở che cho áo lam Gia Đình Phật Tử Việt Nam nương Tổ Đình tu học.

Năm 1971, nhân lễ Khánh thành Tổ Đình Tu Viện Quảng Đức, Ngài đã kiến đàn truyền trao giới pháp cho hàng xuất gia, tại giới đàn này Cố Đại Lão Hòa thượng thượng Trí hạ Thủ được cung thỉnh làm đàn đầu Hòa thượng.

Với giới châu minh tịnh, nghiêm túc oai nghi, thanh cao tăng tướng đạo phong, Đại Lão Hoà Thượng được cung thỉnh làm giới sư truyền Đại Giới, Bồ Tát giới tại giới đàn Hàn Quốc năm 1971. Năm 1996, Ngài Đại vì Hoà thượng Đàn đầu truyền trao giới pháp cho các giới tử tại Đại Giới Đàn Tỉnh Hội Phật Giáo Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Ngài còn là đương vi Đàn Đầu Hoà Thượng tại các giới đàn phương trượng ở các chốn Tổ Già Lam và các Trú xứ, hàng ngàn giới tử đắc giới thể và nương Ngài tấn tu đạo nghiệp.

* Công đức Biên phiên dịch tam tạng kinh điển:

Biên phiên dịch Tam Tạng Kinh điển là Phật sự mà suốt cuộc đời Ngài lưu tâm, thực hiện góp phần lưu truyền chánh pháp, với các tác phẩm:

-Kinh Dược Sư

-Kinh Viên Giác

-Kinh Nhật Tụng ( Nghĩa )

-Kinh Vu Lan – Báo Hiếu

-Tu bát quan trai giới

-Đại Thừa Khởi Tín Luận

-Phật Giáo hiện đại

-Tư tưởng Phật giáo

-Bổn phận người Phật tử

-Hai bài thuyết pháp Phật giáo Anh Việt

-Phật Giáo và triết học Tây Phương

-Sử cương triết học Ấn Độ

-Duy thức học

-Trung Quán Luận


Ngoài ra hiện nay còn nhiều tác phẩm, nhiều công trình chưa xuất bản đã nói lên công hạnh của Ngài đối với Đạo Pháp – Dân tộc.

  1. Những ngày tháng cuối cùng:


Theo định luật vô thường, thân tứ đại của Ngài theo ngày tháng cũng bị chi phối, pháp thể khiếm an vì bệnh duyên, tuổi cao sức yếu nhưng Hoà thượng vẫn an nhiên, hoan hỷ sách tấn thất chúng đệ tử tu học, tiếp tục con đường của Ngài.


Vào ngày 19 tháng 03 năm Kỷ Sửu Hoà thượng mộng thấy Trời Đế Thích cung thỉnh ngài thuyết pháp, sau đó ngày 20/03 Hoà thượng nhuốm bệnh và phải nhập viện vì tứ đại khiếm an. Sau thời gian điều trị, Hoà thượng nhận biết cơ duyên hóa độ nơi cõi Ta bà sắp mãn, Ngài dạy chúng đệ tử đưa ngài về Tu Viện để tịnh dưỡng.

Tối ngày 23/03 Hoà thượng phó chúc Phật sự, khuyến tấn tu trì đệ tử xuất gia. Sau đó ngài dạy thất chúng đồng nhiếp tâm niệm phật, và kể từ lúc 00h00 ngày 24/03 ngài không dùng thuốc, không thở bằng bình oxy, nhiếp tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà cầu vãng sanh Tịnh Độ.

Thuận thế vô thường, Đức Đại Lão Hòa thượng an nhiên thu thần thị tịch vào lúc 12h15 ngày 05 tháng 05 năm Kỷ Sửu ( nhằm ngày 28 tháng 05 năm 2009 ) trụ thế 84 năm, hạ lạp 60 năm.

Khép lại 84 năm hiện hữu cõi Ta Bà, 70 năm tu học, hoằng dương chánh pháp Đại Lão Hoà thượng Thượng Quảng Hạ Liên ghi đậm dấu son trong lịch sử Phật giáo, dân tộc với hình ảnh của nhà Giáo dục mô phạm, vị Pháp sư tinh thông nội ngoại điển, Thạch trụ giữa thiền môn, là cội bồ đề cao cả, là bóng mát che chở đàn hậu tấn.

Vẫn biết rằng ngôn ngữ thế gian không thể chuyển tải hết công hạnh và đức độ của ngài, nhưng chúng con xin ghi lại đây đôi dòng tiểu sử như nén tâm hương thành kính dâng lên Giác Linh Đại lão Hoà thượng Tân viên tịch với tất cả lòng cung kính, tri ân.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Ngũ Thế, Khai Kiến Quảng Đức Tu Viện Tổ Đình, huý Thượng QUẢNG Hạ LIÊN, Tự BI HOA, Hiệu TRÍ HẢI, Nguyễn Công Đại Lão Hoà thượng Giác linh thuỳ từ chứng giám.


htthichquanglien



Cung Tiển Giác Linh

Xin đại diện cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Liên Châu gồm Úc châu, Âu châu, Hoa Kỳ và Canada nhất tâm nguyện cầu giác linh:

Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Liên
nguyên Hiệu Trưởng Trường Bồ Đề Sài Gòn trước năm 1975
Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức - Thủ Đức

Là Bổn Sư của Hòa Thượng Thích Chơn Thành, Viện Chủ Chùa Liên Hoa, Garden Grove, CA, USA và Hòa Thượng Thích Chơn Minh.

Sanh năm Bính Dần ( 1926 )
Vãng sanh ngày
28 tháng 05 năm 2009tại Việt Nam
trụ thế 84 năm, Hạ lạp 60 năm


được cao đăng Phật quốc và sớm hội nhập Ta Bà để phổ độ chúng sanh.

Xin chia xẻ những hiện tượng sanh diệt của thế gian và cầu nguyện cho Hòa Thượng Thích Chơn Thành cũng như Hòa Thượng Thích Chơn Minh có đầy đủ dũng lực để hướng về cõi vô sanh của Hòa Thượng Bổn Sư.

Kính nguyện

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

TM. Hội Đồng Điều Hợp

GHPGVNTN Liên Châu


Hòa Thượng Thích Minh Tâm

Chánh văn phòng

Hình ảnh Tang lễ

DSC_7347 (177)
(xem tiếp)

----o0o---


Trình bày: Phổ Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2024(Xem: 1841)
Giáo sư Cao Huy Thuần - tác giả nhiều sách như "Thấy Phật", "Nắng và hoa", "Khi tựa gối khi cúi đầu" - mất ở tuổi 87, tại Paris, Pháp. Ông Cao Huy Hóa, em trai Giáo sư Cao Huy Thuần, thông báo ông mất lúc 5h ngày 8/7 (giờ Hà Nội). Hòa thượng Thích Hải Ấn - Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế - cho biết chờ thông tin từ gia đình, sau đó sẽ tổ chức buổi tưởng niệm giáo sư. Ông từng thỉnh giảng một số chuyên đề tại học viện.
28/06/2024(Xem: 1193)
Cung trời cũ, Thầy ung dung dạo bước, Chốn Hồng Trần, xin tạm gác niềm thương. Như Huyền nhiệm, đến đi trong tự tại. Diệt tang bồng, soi ảnh độ Tây phương. Thầy lặng lẽ, như hành thâm đại nguyện. Pháp Đại Bi, mật trú dạ Huân tu. Trong thiền thất, Thầy an nhiên thiền tọa. Thở và cười, chốn Bát Nhã Chơn như.
24/06/2024(Xem: 1469)
Đúng vậy! Tôn Sư Trưởng lão Hòa Thượng thượng NHƯ hạ HUỆ, Nguyên Hội Chủ và Chứng Minh Đạo Sư GHPGVNTNHN UDL-TTL, Phương trượng Chùa Pháp Hoa SA. Với 70 năm tu tập, 60 phục vụ PGVNTN tại quê nhà và hải ngoại, đã giáo dục, đạo tạo nên nhiều Tăng Ni và Phật tử tài giỏi, biết hy sinh bản thân để cống hiến cho đạo Pháp và dân tộc cũng như hết lòng phụng sự chúng sanh. Nhờ tấm lòng từ bi, với đức tánh hài hòa, nhẫn nại, bao dung rồi thâm nhập Phật Pháp. Từ nền móng đó, Phật giáo đồ và Giáo hội ở Úc đã nhiều nhiệm kỳ cung thỉnh Ngài làm Hội Chủ, đã giáo dưỡng nên nhiều đệ tử biết rõ cuộc đời là vô thường, khổ, để không chạy theo sự sanh diệt của thế gian, lánh xa ngũ dục, tìm cách diệt khổ vươn lên và phụng sự đắc lực cho cuộc đời, tạo vô vàn Phước Đức.
22/06/2024(Xem: 1298)
Có người, khi thấy tôi thường nhắc nhở, ca ngợi Hoà Thượng Thích Như Điển, cho rằng, tôi…nịnh Hoà Thượng. Trời, nếu hiểu theo nghĩa “nịnh” thì mục đích để cầu danh hay lợi gì đó. Muốn có danh đâu phải dễ. Giữa hai hạt, kim cương và hòn sỏi đặt dưới bóng đèn sẽ soi rõ bản chất của nó, không thể nhờ chiếu sáng mà sỏi thành ra kim cương được. Con người cũng thế thôi, bản thân chẳng ra gì có đứng bên người tỏa hào quang thì vẫn thấy cái dở của người đó. Còn lợi thì càng buồn cười hơn. Người tu vốn vào cửa...không, Phật tử phải đắp cho...có. Ở đó mà cầu lợi.
01/06/2024(Xem: 1818)
Từ khi mở đất, khai hoang, lập ấp vùng đất mới, Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558-1613) đã để ý đến việc lập chùa và lấy Phật giáo làm nơi nương tựa tinh thần cho việc lập quốc của dòng họ Nguyễn. Theo truyền thống đó, các chúa Nguyễn đều sùng thượng đạo Phật và mời các vị danh tăng Trung Quốc đến Đàng Trong hay vùng Nam Bộ ngày nay để hoằng hóa. Thế kỷ XVII ghi nhận có mặt của các Thiền sư Trung Hoa (Nguyễn Lang 2008):
31/05/2024(Xem: 2446)
Sa môn Endo Mitsunaga (Giáo thọ A-xà-lê Quang Vĩnh Viên Đạo, 光永圓道阿闍梨), sinh năm năm Ất Mão (1975) tại Kyoto. Năm Canh Ngọ (1990), thiếu niên tuổi 15, Ngài xuất gia thụ giới Sa di tại Myoo-do Hall ở Mudojidani, Mt. Hiei. Năm 1997 Ngài tốt nghiệp chuyên khoa Phật học tại Đại học Hanazono (花園大学).
28/05/2024(Xem: 2878)
Huế thường được mệnh danh là “Kinh đô Phật giáo” chẳng phải vì cảm hứng nghệ thuật hay cường điệu vẽ vời mà chính vì Huế có tới 332 ngôi chùa và niệm phật đường lớn nhỏ, trong đó có khoảng 100 ngôi cổ tự. Các ngôi chùa ngày nay hầu như đều được trùng tu nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc cổ kính, căn bản mang đậm màu sắc văn hóa Phật giáo. Dẫu là dấu tích truyền thống của tôn giáo nhưng những ngôi chùa cổ của Huế vẫn tiềm tàng những giá trị tâm linh, văn hóa, lịch sử của vùng đất cố đô.
09/05/2024(Xem: 2558)
Nhị vị canh cánh bên nhau suốt cả cuộc đời. Nhị vị cùng tòng học với Ngài BÍCH LIÊN ( Bình Định) rồi nhị vị dấn thân ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI , mỗi vị mỗi phong cách, mỗi vị một vị thế khác nhau, nhưng mỗi vị đều trung trinh lý tưởng : Coi việc phụng sự Phật pháp như là việc Nhà ( Hoằng Pháp vi gia vụ ) Nhị vị trọn đời trung trinh “ Thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh.
07/05/2024(Xem: 2566)
Hòa Thượng thế danh NGUYỄN HƯỚNG, pháp danh TÂM HOÀN tự GIẢI QUY, hiệu HUỆ LONG, thuộc dòng thiền phái Lâm Tế đời thứ 43. Hòa Thượng sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tý (1924) trong một gia đình môn phong Nho giáo tại làng Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Giòng họ Nguyễn Phúc định cư dưới chân đồi Phốc Lốc tính đến đời Ngài đã trải qua 7 đời.Thân phụ là cụ ông Nguyễn Phúc Trì tự Tung pháp danh Không Đảnh, đích mẫu là cụ bà Trần Thị Kiện mất sớm, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Chiếu pháp danh Không Chiêu, ông bà đều là đệ tử quy y với Quốc Sư Phước Huệ trú trì Tổ Đình Thập Tháp Di Đà. Thân phụ Ngài là một Hương chức trong làng, một vị đồ Nho giỏi văn chương thi phú, tín ngưỡng tôn sùng Phật giáo, ông bà sống rất phúc đức nhân hậu với mọi người. Gia đình Hòa Thượng có mười anh em(5 anh em trai, 5 chị em gái) Ngài là con thứ tám. Người anh cả của Hòa Thượng tục danh Nguyễn Cao theo Pháp Sư Phổ Huệ vào Nam, sau đó ở lại định cư lập nghiệp tại Vĩnh Long, người anh th
13/04/2024(Xem: 1418)
Trang nghiêm Đức Trí châu viên Thậm thâm Bát Nhã bên triền KHỔ KHÔNG Hành vô hành hạnh quán thông LỜI VÀNG KINH PHẬT trãi dòng Chân Như Niết bàn tịnh cảnh vô dư Nhập Như lai tạng như NHƯ LAI về Nhân gian mát bóng Bồ Đề Ma ha Bát Nhã quy về diệu âm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]