Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Hòa Thượng Thích Hạnh Tuấn

04/11/201508:57(Xem: 12247)
Tiểu sử Hòa Thượng Thích Hạnh Tuấn


thichhanhtuan

Tiểu sử Hòa Thượng Thích Hạnh Tuấn

 

Hòa  Thượng Thích Hạnh Tuấn là một người con ưu tú của đất Quảng Nam, nơi được mệnh danh Địa Linh Nhân Kiệt, Ngũ Phụng Tề Phi.

Ngài sinh năm Bính Thân (1956) thế danh Bùi Cống, tại thôn Giáo Đông, xã Lộc Xuân, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Trong một gia đình nhiều đời sùng tín Tam Bảo.

Thân phụ: Cụ Ông Bùi Huấn, Pháp Danh Như Giáo

Thân mẫu: Cụ Bà Nguyễn Thị Di, Pháp Danh Như Lộc

Hòa Thượng là người con thứ tám trong một gia đình có tất cả 11 anh chị em.

Hòa Thượng thuộc đời thứ 42 của dòng Lâm Tế Chánh Tông và là đời thứ 9 của Pháp Phái Lâm Tế Chúc Thánh.

Ngài xuất gia từ nhỏ với Hòa Thượng Thích Như Vạn, Trụ trì Tổ Đình Phước Lâm, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, và được Ngài ban cho Pháp Danh Thị Trạm, Pháp Hiệu Hạnh Tuấn.  Sau khi Bổn Sư viên tịch Ngài cầu pháp với Đức Đệ Tam Tăng Thống, Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Chùa Linh Mụ, thành phố Huế, và được Ngài ban cho Pháp Hiệu Hải Như.

Ngài thọ Sa Di giới năm 1973 tại Đại Giới Đàn Phước Huệ - Phật Học Viện Hải Đức,Nha Trang,

Khánh Hòa do Hòa Thượng Thích Phúc Hộ làm Đàn Đầu.

 
Năm 1972-1975 Ngài học chương trình Phổ thông Trung Học tại trường Trần Quý Cáp, Hội An.

Năm 1976 Ngài thọ Tỳ Kheo tại Đại Giới Đàn Quảng Đức, do Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm Chánh Chủ Đàn tại Chùa Ấn Quang, văn phòng của Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Hòa Thượng Thích Hành Trụ làm Đàn Đầu.

Từ năm 1980 đến năm 1984, Ngài tham học chương trình Cao Cấp Phật Học Đặc Biệt tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam, Sài Gòn.

Năm 1984, Ngài vượt biên đến Indonesia. Xây cất Chùa Kim Quang tại trại tỵ nạn Pulau Galang.

Năm 1985, Ngài định cư tại Hoa Kỳ.

Năm 1987-1989 Ngài học tại City College of San Francisco.

Năm 1990-1992 Ngài theo học ngành Tâm Lý Học (phụ) và Ngôn Ngữ Văn Minh Trung Hoa (chính) tại San Francisco State University.

Năm 1993-1995 Ngài theo học chương trình Cao Học Tôn Giáo Tỷ Giảo (Master of Theology Studies) tại Harvard University.

Năm 1996-2005 Ngài học chương trình Tiến Sĩ Phật Học (Buddhist Studies) tại University of California at Berkeley. Luận án, “Kinh Khắc Bản Gỗ - Tinh Hoa của Tam Tạng Kinh Điển Phật Giáo Việt Nam” (Vietnamese Buddhist Xylography: Surviving Evidence For a of the True Nature of Vietnamese Buddhist Tripitaka).

Năm 1985 – 2000 Ngài thường trú học hành và hoằng pháp tại Chùa Từ Quang, San Francisco, tiểu bang California.

Năm 2000 – 2005 Thường trú và nghiên cứu tu học tại Tu Viện Kim Sơn, Watsonville, tiểu bang California.

Năm 2004 Ngài cùng chư Pháp Hữu vốn là cựu học Tăng niên khoá 1980 – 1984 tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam, Sài Gòn, thành lập Hội Thân Hữu Già Lam.

Từ tháng 10, 2005 đến tháng10, 2006 Ngài lãnh đạo tinh thần, Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại tiểu bang Illinois, USA.

Vào ngày 22-10-2006 Ngài chánh thức nhận chức Trụ Trì Chùa Trúc Lâm, thành phố Chicago, tiểu bang Illinois, USA cho đến ngày viên tịch.

Ngài là người chủ trương Đặc San Trúc Lâm, phát hành mỗi năm một lần vào dịp Tết Nguyên Đán.

Ngài phát động chương trình Mổ Mắt Cho Người Nghèo tại quê nhà, và luôn luôn thực hiện thành công các chương trình cứu trợ thiên tai trên thế giới

Ngài nguyên là: Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ.

Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử miền Khánh Hòa, Hoa Kỳ.

Ngài đã có bài đăng trên nhiều báo chí Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại như: Nguồn Sống, Chân Nguyên, Phương Trời Cao Rộng, Viên Giác, Thằng Mõ San Francisco, Sen Trắng.

Có bài đăng trên các trang nhà điện toán toàn cầu như: Quảng Đức, Thân Hữu Già Lam, Pháp Luân, Đạo Phật Ngày Nay, Thư Viện Hoa Sen v.v…

Những sáng tác và nghiên cứu gồm có:

 

-     Huyền Trang và Những Cơn Mộng (Việt Ngữ)

-     Trại Sinh Huyền Trang Hãy Học và Làm Theo Hạnh Nguyện của Pháp Sư Huyền Trang (Việt Ngữ)

-     Hình Tượng Bồ Tát Quan Thế Âm - Từ Tín Ngưỡng Dân Gian Đến Đỉnh Cao Của Nền Mỹ Thuật Phật Giáo Việt Nam (Việt Ngữ)

-     Kinh Kim Cang - Sự Hình Thành và Phát Triển (Anh Ngữ)

-     Quan Niệm về Không Gian và Thời Gian trong Phật Giáo (Anh Ngữ)

-     Kinh Kim Cang trong nguồn mạch văn hiến của Phật Giáo Việt Nam

-    Phước điền hạt tốt

-    Những chữ Kỵ Húy xuất hiện trong Kinh Kim Cang qua sự truyền thừa Kinh Điển tại Việt Nam

-     Quan điểm của Phật Giáo về nghèo khó và thịnh vượng (Anh Ngữ)

-     Tôi yêu màu lam

-     Giữ thân như “Mệ” Giữ tâm cho “Phật”

 

Ngoài ra còn một số những sáng tác chưa được phổ biến

 

Đặc biệt Ngài còn có nhiều bài Sám Tụng với giọng đầy thiền vị và thanh thoát.

 

Những năm đầu của thập niên 90, Hòa Thượng là người nhận lãnh sứ mạng từ Đức Đệ Tam Tăng Thống vận động thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hoa Kỳ. Ngài cũng là một trong những thành viên ban đầu soạn thảo Hiến Chương cho Giáo Hội. Đại hội diễn ra vào tháng 9 năm 1992 thành công một cách viên mãn, Hòa Thượng xin phép Giáo Hội tạm thời không nhận lãnh trách nhiệm nào để tiếp tục con đường học vấn.

 

Ngoài việc hoằng pháp độ sanh, mà hàng trưởng tử Như Lai phải hoàn thành sứ mạng, Ngài còn có 3 tâm nguyện lớn:

1)     Giúp cho giới trẻ, đặc biệt là tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam luôn giữ vững niềm tin vào Tam Bảo, thể hiện tinh thần Bi Trí Dũng và lý tưởng dấn thân phụng sự của tổ chức áo lam.

2)     Ưu tư sự sống còn của Giáo Hội cũng như sự phát triển của môn phái Chúc Thánh.

3)     Truyền đạo đến người bản xứ cũng như khuyến khích và phát triển việc học tiếng Việt cho các em sinh trưởng nơi xứ người.

 

Tiếc thay tâm nguyện chưa tròn, Hòa Thượng đã ra đi bất chợt trong vô thường vào ngày 30 tháng 10 năm 2015.

Hòa Thượng trụ thế 60 năm, 40 hạ lạp.

Sự ra đi của Hòa Thượng là một mất mát lớn lao cho Phật Giáo Việt Nam, mất đi một bậc chân tu tài đức vẹn toàn một đời hy hiến cho Đạo Pháp.

 

Phật Tử chùa Trúc Lâm và các Đạo Tràng tu học mất đi một bậc thầy khả kính, chỗ dựa tinh thần vững chãi trên bước đường tu học.

 

Tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam trên thế giới nói chung và Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại

Hoa Kỳ nói riêng, mất đi một vị Thầy Cố Vấn Giáo Hạnh bao dung độ lượng luôn quan tâm lo lắng cho sự thăng tiến của ngôi nhà lam.

 

Hòa Thượng ra đi về cõi vô sanh bất diệt, hương trí tuệ đức hạnh còn lưu mãi cho mai sau.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế, Lâm Tế Chúc Thánh Pháp Phái huý thượng Thị hạ Trạm, tự Hạnh Tuấn, hiệu Hải Như, Hòa Thượng Chi Giác Linh


 
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8089)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4859)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37217)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6144)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6109)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5752)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8768)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]