Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 313: Phẩm Chúng Dụ 03, Phẩm Chơn Thiện Hữu 01

13/07/201514:47(Xem: 13619)
Quyển 313: Phẩm Chúng Dụ 03, Phẩm Chơn Thiện Hữu 01

Tập 06

 Quyển 313

 Phẩm Chúng Dụ 03

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm

Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

 

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao chúng sanh trụ Bồ-tát thừa không có phương tiện thiện xảo?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, từ khi mới phát tâm không có phương tiện thiện xảo tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì Này Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này, khi tu hành bố thí, nghĩ thế này, ta tu hành bố thí, người kia nhận của ta bố thí, ta cho vật như vậy; khi tu hành tịnh giới, nghĩ thế này, ta giữ giới, giới là đối tượng ta giữ, ta thành tựu giới ấy; khi tu an nhẫn, nghĩ thế này, ta tu an nhẫn, kia là đối tượng ta nhẫn, ta thành tựu nhẫn ấy; khi tu hành tinh tấn, nghĩ thế này, ta tu tinh tấn, ta vì tinh tấn này, ta đủ tinh tấn ấy; khi tu tịnh lự, nghĩ thế này, ta đang tu định, ta vì tu định này, ta thành tựu định ấy; khi tu Bát-nhã, nghĩ thế này, ta đang tu tuệ, ta vì tuệ này, ta thành tựu tuệ ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này, khi tu bố thí, chấp có bố thí này, chấp do bố thí ấy, chấp bố thí là ngã sở rồi sanh kiêu mạn; khi tu hành tịnh giới, chấp có tịnh giới ấy, chấp do tịnh giới này, chấp tịnh giới là ngã sở rồi sanh kiêu mạn; khi tu hành an nhẫn, chấp có an nhẫn ấy, chấp do an nhẫn này, chấp an nhẫn là ngã sở rồi sanh kiêu mạn; khi tu tinh tấn, chấp có tinh tấn ấy, chấp do tinh tấn này, chấp tinh tấn là ngã sở rồi sanh kiêu mạn; khi tu tịnh lự, chấp có tịnh lự ấy, chấp do tịnh lự này, chấp tịnh lự là ngã sở rồi sanh kiêu mạn; khi tu Bát-nhã, chấp có Bát-nhã ấy, chấp do Bát-nhã này, chấp Bát-nhã là ngã sở rồi sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong bố thí Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của bố thí Ba-la-mật-đa; trong tịnh giới Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh giới Ba-la-mật-đa; trong an nhẫn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của an nhẫn Ba-la-mật-đa; trong tinh tấn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tinh tấn Ba-la-mật-đa; trong tịnh lự Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh lự Ba-la-mật-đa; trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này vì chẳng biết tướng của bờ bên này, bờ bên kia, nên chẳng thể nhiếp thọ bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thể nhiếp thọ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thể nhiếp thọ phương tiện thiện xảo; chẳng thể nhiếp thọ pháp không nội, chẳng thể nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng thể nhiếp thọ chơn như, chẳng thể nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng thể nhiếp thọ Thánh đế khổ, chẳng thể nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng thể nhiếp thọ bốn tịnh lự, chẳng thể nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng thể nhiếp thọ tám giải thoát, chẳng thể nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng thể nhiếp thọ bốn niệm trụ, chẳng thể nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, chẳng thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng thể nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; chẳng thể nhiếp thọ năm loại mắt, chẳng thể nhiếp thọ sáu phép thần thông; chẳng thể nhiếp thọ mười lực Phật, chẳng thể nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng thể nhiếp thọ pháp không quên mất, chẳng thể nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; chẳng thể nhiếp thọ trí nhất thiết, chẳng thể nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng thể nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; chẳng thể nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên ấy nên chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này rơi vào địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, do chẳng nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cũng chẳng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, nên thối đọa vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa vì thường nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cũng thường nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, nên chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Có thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, từ khi mới phát tâm, lìa chấp ngã và ngã sở, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, lìa chấp ngã và ngã sở, tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa; lìa chấp ngã và ngã sở, tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa; lìa chấp ngã và ngã sở, tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa; lìa chấp ngã và ngã sở, tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa; lìa chấp ngã và ngã sở, tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn này, khi tu bố thí, chẳng nghĩ thế này, ta tu hành bố thí, kia nhận của ta bố thí, ta bố thí vật như vậy; khi tu tịnh giới, chẳng nghĩ thế này, ta giữ giới, giới là đối tượng ta giữ, ta thành tựu giới ấy; khi tu an nhẫn, chẳng nghĩ thế này, ta tu an nhẫn, kia là đối tượng ta nhẫn, ta thành tựu nhẫn ấy; khi tu tinh tấn, chẳng nghĩ thế này, ta tu tinh tấn, ta vì tinh tấn này, ta đủ tinh tấn ấy; khi tu tịnh lự, chẳng nghĩ thế này, ta tu định, ta vì tu định này, ta thành tựu định ấy; khi tu Bát-nhã, chẳng nghĩ thế này, ta tu tuệ, ta vì tu tuệ này, ta thành tựu tuệ ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, khi tu bố thí, chẳng chấp có bố thí, chẳng chấp do bố thí này, chẳng chấp bố thí là ngã sở; khi tu tịnh giới, chẳng chấp có tịnh giới, chẳng chấp do tịnh giới này, chẳng chấp tịnh giới là ngã sở; khi tu an nhẫn, chẳng chấp có an nhẫn, chẳng chấp do an nhẫn này, chẳng chấp an nhẫn là ngã sở; khi tu tinh tấn, chẳng chấp có tinh tấn, chẳng chấp do tinh tấn này, chẳng chấp tinh tấn là ngã sở; khi tu tịnh lự, chẳng chấp có tịnh lự, chẳng chấp do tịnh lự này, chẳng chấp tịnh lự là ngã sở; khi tu Bát-nhã, chẳng chấp có Bát-nhã, chẳng chấp do Bát-nhã này, chẳng chấp Bát-nhã là ngã sở. Vì sao? Vì trong bố thí Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của bố thí Ba-la-mật-đa; trong tịnh giới Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh giới Ba-la-mật-đa; trong an nhẫn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của an nhẫn Ba-la-mật-đa; trong tinh tấn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tinh tấn Ba-la-mật-đa; trong tịnh lự Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh lự Ba-la-mật-đa; trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, vì biết rõ tướng bờ bên này, bờ bên kia, nên có thể nhiếp thọ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; lại có thể nhiếp thọ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ mười địa Bồ-tát, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ năm loại mắt, sáu phép thần thông, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao chúng sanh trụ Bồ-tát thừa có phương tiện thiện xảo?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu chúng sanh Bồ-tát thừa, từ khi mới phát tâm có phương tiện thiện xảo tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì này Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này khi tu bố thí, chẳng nghĩ thế này, ta tu hành bố thí, kia nhận của ta bố thí, ta bố thí vật như vậy; khi tu tịnh giới, chẳng nghĩ thế này, ta giữ giới, giới là đối tượng ta giữ, ta thành tựu giới ấy; khi tu an nhẫn, chẳng nghĩ thế này, ta tu hành an nhẫn, kia là đối tượng mà ta nhẫn, ta thành tựu nhẫn ấy; khi tu tinh tấn, chẳng nghĩ thế này, ta tinh tấn, ta vì tinh tấn này, ta đầy đủ tinh tấn ấy; khi tu tịnh lự, chẳng nghĩ thế này, ta tu định, ta vì tu định này, ta thành tựu định ấy; khi tu Bát-nhã, chẳng nghĩ thế này, ta tu tuệ, ta vì tuệ này, ta thành tựu tuệ ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này, khi tu bố thí, chẳng chấp có bố thí, chẳng chấp do bố thí này, chẳng chấp bố thí là ngã sở, cũng chẳng kiêu mạn; khi tu tịnh giới, chẳng chấp có tịnh giới, chẳng chấp do tịnh giới này, chẳng chấp tịnh giới là ngã sở, cũng chẳng kiêu mạn; khi tu an nhẫn, chẳng chấp có an nhẫn, chẳng chấp do an nhẫn này, chẳng chấp an nhẫn là ngã sở, cũng chẳng kiêu mạn; khi tu tinh tấn, chẳng chấp có tinh tấn, chẳng chấp do tinh tấn này, chẳng chấp tinh tấn là ngã sở, cũng chẳng kiêu mạn; khi tu tịnh lự, chẳng chấp có tịnh lự, chẳng chấp do tịnh lự này, chẳng chấp tịnh lự là ngã sở, cũng chẳng kiêu mạn; khi tu Bát-nhã, chẳng chấp có Bát-nhã, chẳng chấp do Bát-nhã này, chẳng chấp Bát-nhã là ngã sở, cũng chẳng kiêu mạn. Vì sao? Vì trong bố thí Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của bố thí Ba-la-mật-đa; trong tịnh giới Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh giới Ba-la-mật-đa; trong an nhẫn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của an nhẫn Ba-la-mật-đa; trong tinh tấn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tinh tấn Ba-la-mật-đa; trong tịnh lự Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh lự Ba-la-mật-đa; trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này, vì biết rõ tướng bờ bên này, bờ bên kia, nên có thể nhiếp thọ bố thí tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; lại có thể nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ mười địa Bồ-tát, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; lại có thể nhiếp năm loại mắt, sáu phép thần thông, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Như vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, vì có khả năng nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cũng có khả năng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, nên chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

 

Tập 06

 Quyển 313

 Phẩm Chơn Thiện Hữu 01

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi mới bắt đầu sự nghiệp nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học tịnh lự Ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học tinh tấn Ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học an nhẫn Ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học tịnh giới Ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học bố thí Ba-la-mật-đa như thế nào?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát mới bắt đầu sự nghiệp, nếu muốn tu học Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa thì trước hết phải gần gủi, cung kính, cúng dường chơn thiện tri thức có khả năng giỏi nói Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, nghĩa là khi nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nói như thế này: Thiện nam tử! Hãy đến đây! Khi ngươi bố thí thì, nên nghĩ thế này, việc tu bố thí này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi ngươi trì giới, nên nghĩ thế này, việc tu tịnh giới này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi ngươi tu nhẫn, nên nghĩ thế này, việc tu nhẫn này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi ngươi tinh tấn, nên nghĩ thế này, việc tu tinh tấn này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi ngươi tu định, nên nghĩ thế này, việc tu tịnh lự này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi ngươi tu tuệ, nên nghĩ thế này, việc tu Bát-nhã này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào sắc để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào thọ, tưởng, hành, thức để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ sắc thì thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào nhãn xứ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ nhãn xứ thì thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào sắc xứ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ sắc xứ thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào nhãn giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ nhãn giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào nhĩ giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ nhĩ giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào tỷ giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ tỷ giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào thiệt giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ thiệt giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào thân giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ thân giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào ý giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ ý giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào địa giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào thủy, hỏa, phong, không, thức giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ địa giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ thủy, hỏa, phong, không, thức giới mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào vô minh để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ vô minh thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào bố thí Ba-la-mật-đa để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ bố thí Ba-la-mật-đa thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào pháp không nội để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ pháp không nội thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào chơn như để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ chơn như thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào Thánh đế khổ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào Thánh đế tập, diệt, đạo để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ Thánh đế khổ thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ Thánh đế tập, diệt, đạo mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào bốn tịnh lự để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào bốn vô lượng, bốn định vô sắc để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ bốn tịnh lự thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ bốn vô lượng, bốn định vô sắc mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào tám giải thoát để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ tám giải thoát thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào bốn niệm trụ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ bốn niệm trụ thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào pháp môn giải thoát không để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ pháp môn giải thoát không thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào mười địa Bồ-tát để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ mười địa Bồ-tát mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào năm loại mắt để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào sáu phép thần thông để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ năm loại mắt thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ sáu phép thần thông mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào mười lực Phật để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ mười lực Phật thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào pháp không quên mất để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào tánh luôn luôn xả để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ pháp không quên mất thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ tánh luôn luôn xả mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào trí nhất thiết để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ trí nhất thiết thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào tất cả pháp môn Đà-la-ni để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào tất cả pháp môn Tam-ma-địa để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ tất cả pháp môn Đà-la-ni thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ tất cả pháp môn Tam-ma-địa mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào quả Dự-lưu để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ quả Dư lưu thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào quả vị Độc-giác để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ quả vị Độc-giác mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào tất cả hạnh đại Bồ-tát để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ tất cả hạnh đại Bồ-tát mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Đối với sắc, ngươi chớ sanh tham ái, đối với thọ, tưởng, hành, thức, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với nhãn xứ, ngươi chớ sanh tham ái, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì nhãn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với sắc xứ, ngươi chớ sanh tham ái, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với nhãn giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với nhĩ giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với tỷ giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với thiệt giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với thân giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với ý giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với địa giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì địa thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với vô minh, ngươi chớ sanh tham ái, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với bố thí Ba-la-mật-đa, ngươi chớ sanh tham ái, đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì bố thí cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với pháp không nội, ngươi chớ sanh tham ái, đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với chơn như, ngươi chớ sanh tham ái, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với Thánh đế khổ, ngươi chớ sanh tham ái, đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với bốn tịnh lự, ngươi chớ sanh tham ái, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với tám giải thoát, ngươi chớ sanh tham ái, đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với bốn niệm trụ, ngươi chớ sanh tham ái, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với pháp môn giải thoát không, ngươi chớ sanh tham ái, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với mười địa Bồ-tát, ngươi chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì mười địa Bồ-tát chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với năm loại mắt, ngươi chớ sanh tham ái, đối với sáu phép thần thông, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với mười lực Phật, ngươi chớ sanh tham ái, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với pháp không quên mất, ngươi chớ sanh tham ái, đối với tánh luôn luôn xả, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với trí nhất thiết, ngươi chớ sanh tham ái, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, ngươi chớ sanh tham ái, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với quả Dự-lưu, ngươi chớ sanh tham ái, đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với quả vị Độc-giác, ngươi chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì quả vị Độc-giác chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát, ngươi chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, ngươi chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

 

Quyển thứ 313

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 30543)
Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh em, 4 trai, 9 gái.
09/04/2013(Xem: 8334)
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu), tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Cụ Ông Vũ Đức Khanh, thân mẫu là Cụ Bà Đỗ Thị Thinh. Hoà thượng có 5 anh chị em, 3 trai 2 gái. Ngài là con thứ 4 trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 6306)
Lý Càn Đức (Bính Ngọ 1066 - Mậu Thân 1128) là vua thứ 4 nhà Lý, con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Càn Đức sinh ra ở Cung Động Tiên, gác Du Thiềm (gác thưởng Trăng) vào tháng Giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Chương Thánh năm thứ 8 (23-2-1066), hồi vua Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi. Một ngày sau ngày sinh thì được lập làm Thái tử, 6 tuổi vua cha mất, được tôn làm vua, tức vua Lý Nhân Tông. Vua có tướng hảo, tâm hiền, bản chất thông minh dũng lược.
09/04/2013(Xem: 7331)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con người và sự nghiệp Lý Công Uẩn. Giá trị lịch sử của một con người không chỉ ảnh hưởng đến tự thân mà dư âm giá trị lịch sử của con người đó còn ảnh hưởng trực tiếp đến muôn người khác từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và quả thật, Vạn Hạnh Thiền sư là người có công rất lớn trong việc khai sáng ra triều đại nhà Lý thì Lý Công Uẩn là vị vua đầu tiên thực thi tinh thần Vạn Hạnh bằng tất cả sự thể nhập "Đạo Pháp - Dân tộc" trong một thực thể duy nhất.
09/04/2013(Xem: 13948)
Có lần trong tù, đói quá, Thầy Quảng Độ nằm mơ thấy được nhà bếp cho một cái bánh bao. Ăn xong thấy bụng căng thẳng, no nê, rất hạnh phúc. Sự thật là đêm ấy, trước khi đi ngủ, vì đói quá nên thấy uống nước cho đầy bụng dễ ngủ. Và Thầy đã đái dầm ra quần. Sáng hôm đó Thầy có làm một bài thơ.
09/04/2013(Xem: 7355)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
09/04/2013(Xem: 8687)
Từ ngày 18-23/5/1996 HT.Thích Minh Châu, Phó CT kiêm Tổng thư ký GHPGVN, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Hiệu trưởng trường CCPHVN... đã lên đường đến Thái Lan để nhận bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự (Honarary Doctorate Degree in Buddhist studies) tại Đại Học Phật Giáo Mahachulalongkornrajvidyalaya, Thủ đô Bangkok, Thái lan.
09/04/2013(Xem: 10944)
Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924). Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần). Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).
09/04/2013(Xem: 5763)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm 1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hũu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương.
09/04/2013(Xem: 7944)
Hòa Thượng Bửu Chơn thế danh là Phạm Văn Thông, sinh năm Tân Hợi (1911) tại Sa Đéc – Đồng Tháp. Thuở thiếu thời Ngài sinh sống tại đất nước Chùa Tháp Campuchia, do đó Ngài thấm nhuần Phật Giáo Nam Tông vốn là quốc giáo của Vương quốc này. Sẵn có túc duyên Phật pháp nên vào năm 1940, Ngài xuất gia thuộc hệ phái Nam Tông. Sau đó Ngài vào rừng chấp trì hạnh đầu đà (Dhatanga) suốt mười hai năm. Năm 1951 Ngài được Phật tử Việt Nam cung thỉnh về Sài Gòn để truyền bá giáo pháp Nguyên Thủy
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]