Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 309: Phẩm Chẳng Nghĩ Bàn 02

12/07/201520:30(Xem: 13548)
Quyển 309: Phẩm Chẳng Nghĩ Bàn 02

Tập 06

 Quyển 309

Phẩm Chẳng Nghĩ Bàn 02

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm

Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 




 

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà sắc chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhãn xứ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà sắc xứ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhãn giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhĩ giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tỷ giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà thiệt giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà thân giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà ý giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà địa giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà vô minh chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp không nội chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà chơn như chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thánh đế khổ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bốn tịnh lự chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tám giải thoát chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bốn niệm trụ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp môn giải thoát không chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà mười địa Bồ-tát chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà năm loại mắt chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; sáu phép thần thông cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà mười lực Phật chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp không quên mất chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà trí nhất thiết chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả Dự-lưu chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả vị Độc-giác chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì thân giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì ý giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì địa giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì vô minh chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì chơn như chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì sáu phép thần thông cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà sắc chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhãn xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà sắc xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhãn giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhĩ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tỷ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà thiệt giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà thân giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà ý giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà địa giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà vô minh chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp không nội chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà chơn như chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thánh đế khổ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bốn tịnh lự chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tám giải thoát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bốn niệm trụ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp môn giải thoát không chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà mười địa Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà năm loại mắt chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; sáu phép thần thông cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà mười lực Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp không quên mất chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà trí nhất thiết chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả Dự-lưu chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả vị Độc-giác chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của sắc chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên sắc chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của nhãn xứ chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên nhãn xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của sắc xứ chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên sắc xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của nhãn giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên nhãn giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của nhĩ giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên nhĩ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của tỷ giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tỷ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của thiệt giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thiệt giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của thân giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thân giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của ý giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên ý giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của địa giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên địa giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của vô minh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên vô minh chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của pháp không nội chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp không nội chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của chơn như chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên chơn như chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của Thánh đế khổ chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên Thánh đế khổ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của bốn tịnh lự chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bốn tịnh lự chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của tám giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tám giải thoát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của bốn niệm trụ chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bốn niệm trụ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của pháp môn giải thoát không chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp môn giải thoát không cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của mười địa Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên mười địa Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của năm loại mắt chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên năm loại mắt chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của sáu phép thần thông cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên sáu phép thần thông cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của mười lực Phật chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên mười lực Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của pháp không quên mất chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp không quên mất chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của trí nhất thiết chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên trí nhất thiết chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của quả Dự-lưu chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên quả Dự-lưu chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của quả vị Độc-giác chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên quả vị Độc-giác chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

 

Quyển thứ 309

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8513)
Nhìn tổng quát công trình nghiên tầm, khảo cứu các văn kiện, tài liệu cổ để tập thành các tác phẩm qua các bộ môn: Lịch Sử, Văn Hóa, Văn Học, Âm Nhạc, Triết học, Thiền học... của Tiến sỹ Sử gia Lê Mạnh Thát là một thành quả to lớn được kết tinh bởi một trí tuệ siêu tuyệt, một khả năng hy hữu, một thời gian liên lũy, lâu dài, qua nhiều thập niên. Đó là những yếu tố mà ít người có được, để lưu lại cho hậu thế những thành quả văn học đồ sộ và chuẩn xác trên dòng sử mệnh quê hương.
09/04/2013(Xem: 15406)
Vua Trần Nhân Tông là một vị anh hùng dân tộc, có những đóng góp to lớn, nhiều mặt cho đất nước, cho lịch sử. Vua đã trực tiếp lãnh đạo quân và dân nước ta, tập hợp được những nhà quân sự tài giỏi, huy động được tiềm lực của toàn dân, đánh thắng đội quân hung hãn, thiện chiến nhất thời bấy giờ, làm nên những chiến công oanh liệt Hàm Tử, Chương Dương, Bạch Đằng, Tây Kết lẫy lừng, đưa dân tộc ta lên đỉnh cao của thời đại. Không những thế, vua đã mở rộng biên cương của tổ quốc, đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp nam tiến hoành tráng của dân tộc, mà con cháu hôm nay và mai sau mãi mãi ghi nhớ và biết ơn.
09/04/2013(Xem: 13253)
Thiền sư Minh Châu Hương Hải là một tác gia lớn không những của văn học và triết học Phật giáo Việt Nam, mà còn của văn học và lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung. Từ nửa cuối thế kỷ 18, cuộc đời và tác phẩm của Minh Châu Hương Hải đã lôi cuốn sự chú ý của những người trí thức đương thời, trong đó nổi bật nhất là nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784).
08/04/2013(Xem: 8233)
Tôi may mắn được diện kiến Người một lần duy nhất, vào năm 1990, tại Chùa Huê Lâm, Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc ấy, tôi làm trợ lý cho thầy Thích Phước Cẩn trong việc vận động phiên dịch và ấn hành Phật Quang Đại Từ Điển. Tôi được Người ân cần khích lệ và truyền trao những kinh nghiệm quý báu về cuộc đời tu học và làm việc Phật sự của Người, trong hơn năm mươi năm qua. Lúc ấy, Người đã tròn 80 tuổi. Sức khỏe của Người còn khá tốt. Tinh thần của Người sáng suốt khác thường. Giọng nói của Người thật từ tốn, nhẹ nhàng.
08/04/2013(Xem: 6440)
Thế nhưng, cũng như chư vị Thiền Tổ khác, sử cũ Việt Nam ta không có quyển nào ghi chép rõ ràng; thậm chí một dòng bi ký cho thật chính xác khắc trên đá cứng cũng không có. Sách Đại Nam nhất thống chí (1910) chỉ ghi: “Chùa Từ Đàm: Ở trên gò ấp Bình An. Tương truyền chùa do Tử Thông Hòa thượng dựng, lại có tên chùa Ấn Tôn”. Lời ghi chép quá đơn sơ, lại có phần sai nữa. Tử Dung chứ đâu phải là Tử Thông? Những tấm bia đá dựng ở chùa Chúc Thánh - Quảng Nam, lại chỉ nói Ngài là: “Người Đại Thanh, qua An Nam, trác tích Thuận Hóa, lập chùa Ấn Tôn”.
08/04/2013(Xem: 6306)
Giờ đây, kính xin Ban Tổ Chức cho phép chùa Thiên Minh – Huế chúng con có đôi lời tác bạch trước Giác Linh Cố Hòa thượng. Ngưỡng bái bạch Giác Linh Cố Hòa Thượng! Tháng 08 tiết mùa thu xứ Huế, khí trời chưa lạnh nhưng lòng chúng con se thắt, buồn lạnh hơn mỗi khi tưởng kính đến Hòa Thượng. Hôm nào đây, tại Huế, chúng con nghe tin Hòa Thượng sắp xả báo thân, đêm dài chúng con không ngủ, lo lắng từng phút giây. Thế rồi sự hồi hộp lo âu đó đã đến... Khi điện thoại reo, chúng con nhấc máy lên thì được khẩn tin Hòa Thượng đã an nhiên thâu thần thị tịch. Từ Cố Đô Huế xa xôi, lòng chúng con thật bàng hoàng thống thiết. Ôi thật là!
08/04/2013(Xem: 14416)
Thế là gần một phần năm thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày vị ân sư của chúng tôi là Hoà thượng Tâm Như Đạo Giám Trí Thủ viên tịch. Đây là một mất mát to lớn không những đối với bản thân những người đã thọ ân Hoà thượng mà còn đối với đạo pháp và dân tộc.
01/04/2013(Xem: 9156)
Đây là tài liệu do cố thi sĩ Bùi Giáng ghi chép ngay trong cuốn sổ tay của chúng tôi vào một buổi trưa ngày mùng 10 tháng 11 năm 1993 tại chùa Pháp Vân, Gia Định, Sàigòn.
29/03/2013(Xem: 8837)
Đức Đại Lão Hòa thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn Chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên. . .
29/03/2013(Xem: 7479)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]