Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Tổ Liễu Quán

10/04/201311:04(Xem: 7616)
Tiểu Sử Tổ Liễu Quán

90tolieuquan2

TỔ LIỄU QUÁN

TT. Thích Khế Chơn


(Do Thượng tọa Thích Khế Chơn đọc nhân lễ đặt đá trùng tu Tổ đình Thiền Tôn ngày 19.1.2000)


Hôm nay dưới bóng mát thiền lâm Thiên Thai pháp phái, trước giây phút thiêng liêng tỏa ngát hương đàm, chúng con đang qui tụ về đây, nơi vùng đất Thánh, nơi đã ghi đậm nét lịch sử một đời người xuất thị nhập sơn, tầm rong độ nhật, nơi Ngài đã thể hiện công án thoại đàu, luôn luôn quấn quýt đeo đẳng tâm tư với những tháng năm dài chẻ chia suy cứu- Thiền pháp trầm tịch nhưng hưng suy, trừng thanh nhưng hoạt diễm ấy đến nay vẫn còn phong khí nức hương.

Ôn lại lịch sử đời Ngài là ôn lại bước chân truyền thống bên trong chiều sâu ’Hải để tẩu mã, sơn thượng hành thuyền’chiết trung là cả một dòng suy tưởng lớn trong đại pháp bạt ngàn huyền nhiệm. Ngài sinh vào giờ Thìn, ngày 13 tháng 11 năm đinh Mùi (1667) tại làng Bạch Mã Sông Cầu, huyện đồng Xuân, tỉnh Phú Yên bên cạnh dãy Trường Sơn hùng vĩ là xương sống của tổ quốc Việt nam. Ngài sinh ra trong một gia đình bình dân, mồ côi mẹ từ thuở lên sáu. Ngài hiện hữu như một sự thách thức với phong khí thiên nhiên, sông thâm núi hiểm.

đã hơn một lần trắc nghiệm tâm linh, ngày lại ngày qua hạt giống từ tịnh giác quang trứt mầm nở hạt đó là lúc Ngài được thân phụ dẫn đến ngưỡng cửa Hội Tôn bái yết Hòa thượng Tế Viên lúc 12 tuổi. Trong thời gian sáu bảy năm trời ở Thiền viện Hội Tôn tuy bên ngoài thị hiện một chú tiểu đồng chất phác ngây ngô, nhưng bên trong tàng ẩn hạnh nguyện vị tha tuyệt luân xuất chúng. Ngài đã sống trọn vẹn với lý tưởng ‘Thật tế lý địa, bất thọ nhất trần, Phật sự môn trung, bất xã nhất pháp’. Ngài có tiếng hầu thầy tận trung, học bạn tận tín ; với phong thái đó Ngài chững chạc bước vào rừng pháp luật nghi với đôi chân vững chắc, quả tim nhiệt tình và khối óc tin yêu. Nhưng cũng trong thời gian đó Sư phụ viên quy Phật cảnh, nên tâm thức Ngài thêm một lần chấn động hoang tiêu, Ngài cư tang trong niềm mất mát quặn lòng.

Tuy xứ Phú Yên dừa xanh bát ngát, thuyền khí ni thiên cũng không tài ngăn được bước chân Ngài khi chí nguyện kiên trinh đã hướng thẳng về một trời Bắc phương đang đón chờ cơ duyên xiển khai hưng phát. Ngài đã đạp nát ngai chông, băng đèo vượt ải, hơn mấy trăm cây số ngàn Phú Yên-Thuận Hóa đã xích lại gần hơn trong tâm khảm Ngài. Thế rồi một bóng đơn phương, cô thân chích ảnh, dòng máu xuất trần đang thúc hối, giục ruổi đôi chân, với gói hành trang đơn hàn bé bỏng. đôi guốc mộc của Ngài đã đạp bằng cát bụi Trường Sơn để đặt chân lên xứ Huế. Năm Canh Ngọ (1690), Ngài hướng đến Hàm Long Thiên Thọ - tức Tổ đình Báo Quốc ngày nay để bái yết Giác Phong Lão Tổ. Cư trú ở đây gần được một năm, hay tin thân phụ ngọa bệnh nan y, Ngài trở lại cố hương phụng dưỡng cha già. Hằng ngày vào rừng đốn củi để đem về đổi gạo nuôi cha. Ròng rã bốn năm trời, sau thân phụ vĩnh biệt ra đi, Ngài tận tụy lo tròn hiếu đạo. Trong thời gian bảy năm trời, ngài đã hai lần chứng kiến cảnh tử biệt sinh ly. Ngoại cảnh hơn một lần chấn động tâm linh, nhưng cũng chính âm ba đó đã thôi thúc Ngài trực nhận phân minh bến bờ sinh tử. Cánh hải âu đã lồng lộng lướt gió tung mây, những cụm tơ trời làm sao cột chặt tâm hồn vốn sẵn tư phong tầm nghiên chân lý.

Năm Ất Hợi (1695), Ngài trở ra Thuận hóa chọn vùng đất này thọ giáo cầu tu. Ngài đã thọ Sa-di với Ngài Hòa thượng Thạch Liêm và hai năm sau - tức năm đinh sửu (1697)- Ngài đã đăng đàn thọ Cụ túc giới.

đối với Ngài, bản hoài tự độ độ tha không phải là cơm chén nước ly mà bước hoạn đồ phải lắm gian truân thao thao khổ lụy. Cảnh thấy trước mắt, tiếng động bên tai, lục căn đối trần vẫn là ba động trường canh thoạt sinh thoạt diệt. Cho nên, niềm tâm tư khắc khoải vẫn nằm trong vức giới suy tưởng dâng trào. Muốn đạt đến chân trời cứu cánh đó, không gì khác hơn cần nỗ lực tấn tu, nghiên tầm pháp yếu... đến năm Kỷ mão (1699), Ngài bắt đàu tham lễ khắp chốn Thiền lâm, hễ nghe đâu có danh tăng xuất hiện là ở đó có bóng hình Ngài. Trên dặm đường tầm pháp ấy, Ngài đã dõng mãnh vượt thoát bao nỗi gian truân. Với Ngài, trở lực chính là bước thăng hoa, là mốc giới đánh dấu con đường hiển thánh. Nhưng cánh chim hồ hải đâu có thể bay mãi đến vô cùng và chính phong khí Long sơn nơi Tổ Từ Dung hoằng hóa, khai sơn Tổ đình Từ đàm, lưới pháp huyền linh đã cột chặt chân Ngài trong yếu chỉ thoại đàu ‘Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ’(Muôn pháp về một, một về chỗ nào). Với dòng tâm linh trơn trợt thuận chiều, lối suy tư đó đã được gút lại trong vỏ cứng tư duy, cần dũa mài đẽo gọt và đợi chờ chuỗi ý thức bùng vỡ.

Hoát nhiên bùng vỡ là hoát nhiên đại ngộ. Những sự kiện ấy cần kinh qua thời gian chiêm nghiệm, quá độ của chiêm nghiệm là thực tại bức thúc, chia chẻ, chiết ly. Chính điều này đã đeo đẵng Ngài suốt bảy tám năm trời chết sống. Nội tại tâm giới qua những lần sống chết triền miên - vạn pháp hiện hữu đơn vị. Vạn pháp sẽ về một, về với cội nguồn chơn chất bản lai; nhưng một sẽ về chỗ nào nếu không phải là đắng cay tủi nhục ôm lấy bó gai nhọn khó khăn này. Ngài bắt đầu tìm về núi Thiên Thai kết bạn với hoa ngàn cỏ nội, gần gủi với thú dữ ma thiêng... Ngài sống cảnh rong rêu độ nhật, hoa quả đoạn ngày, một mình một bóng, tháng lại ngày qua, năm chầy tiết mãn. Tất cả cho tâm giới suy tư, tất cả cho vết hằn xé óc, tim buốt, gan nhừ. đi tìm nguyên ủy nhất như chính là đi tìm cái ta trong ta, Pháp trong Pháp, Phật trong Phật. Rồi một buổi nọ, sau bảy tám năm trời suy tầm chiêm nghiệm, Ngài đã gõ đúng ô cửa ‘truyền đăng’mà một chỉ là ‘Chỉ vật truyền đăng, nhất bất hội xứ’. Bỗng nhiên Ngài được bừng sáng.

Mùa xuân năm Mậu tý (1708), trên con đường trở lại Kinh đô, cỏ dại rêu phong sau 2920 ngày đã lấp đầy lối cũ. Ngài tìm đến Long sơn cầu Hòa thượng Tử Dung ấn chứng. Ngài đem chỗ công phu của mình tuần tự bộc bạch rõ ràng. Hòa thượng Tử Dung đã cho Ngài nếm thêm một lần pháp dược:

‘Ra nơi hố thẳm buông tay,

Lao mình nhảy xuống hiểm nguy cam đành.

Chết đi sống lại chính mình,

Không còn ai kẻ dối khinh được nào!’

Như khế hợp với niềm mong ước từ lâu, Ngài vỗ tay reo cười với nỗi mừng vui cháy sáng. Như con chim đã chui qua mạng lưới, Hòa thượng Tử Dung đã xé toạc những mắc võng cuối cùng bằng lối phủ nhận có dấu than. Tổ dạy: ‘Chẳng nhằm, chẳng nhằm!’. Có nghĩa là không nhằm nhưng không nhằm mới đích thị là nhằm. đây là triển khai lý sắc không Bát-nhã. Chính vì điểm khế hội ấy nên Ngài nhậm lẹ đối ngôn:

‘Xưa nay sự thật rõ ràng,

Quả cân này vốn làm bằng sắt kia’.

Lại hai chữ ‘không nhằm’toát ra từ kim khẩu của Tử Dung Lão Tổ. đây chính là lưỡi dao sắc, cắt nốt mắt lưới cuối cùng để cho cánh hồng điểu tung trời lướt gió.

‘Nếu như sớm biết đèn là lửa,

Nếu chắc chắn rằng cơm chín đã lâu’.

Bấy giờ hoàng điểu đã cao bay, càng lúc càng cao, cao tận chóp đỉnh trời xanh lồng lộng. Tổ Tử Dung thỏa dạ thúc đẩy cho chim thoát gió băng ngàn bằng pháp yếu :

‘Xưa nay Phật, Tổ truyền nhau,

Chẳng hay Phật, Tổ truyền trao vật gì ?’

Có sẵn vốn am tường nhất chơn pháp giới đã được ngộ hoạch, Ngài thưa đáp lại lời Tổ Tử Dung nhưng cũng chính là trả lời cho mình:

‘Tảng đá mọc măng cao một trượng,

Lông rùa làm chổi nặng ba cân’.

Tổ Tử Dung tiếp:

‘Lung linh nước chảy qua đèo,

Ngựa đua dưới nước, thuyền chèo trên non’.

Ngài ứng khẩu:

‘Trâu đất gãy sừng thâu đêm rống,

đàn cầm dây đứt suốt ngày rung’.

Sau khi đã mở được những chuỗi khóa siêu tuyệt, bằng lối phép ngôn thấn đối đó, Tử Dung Lão Tổ đã ấn chứng, Ngài lại trở bước lên đường hoằng du độ thế. Với khối óc, con tim và đôi chân không biết mỏi mệt, Ngài đã vân du hóa độ đó đây. Hết Huế đến Phú Yên, xong Phú Yên trở lại Huế, từ vua quan tể tướng cho đến sĩ thứ nhân dân, xã hội có bao nhiêu giai tầng là có bấy nhiêu ứng thân hóa hiện.

Suốt dọc chặng đường miền Trung không đâu là không có bước chân Ngài và lắm lúc Ngài đã sử dụng thần thông để thâu ngắn những quãng đường hóa đạo. Suốt cuộc đời Ngài là một chuỗi ngày dài thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh.

Mùa xuân năm Nhâm dần (1722), Ngài về Huế ở thảo am Thiên Thai, tức Tổ đình Thiền Tôn bây giờ. Trong những năm Quý sửu (1733), Giáp dần (1734), Ât hợi (1735), Ngài khai liên tiếp bốn đại giới đàn theo lời thỉnh cầu của hàng xuất gia, của các quan viên hộ pháp cũng như thiện tín Phật tử gần xa. Năm Canh Thân (1740), sau khi truyền giới tại Giới đàn Long Hoa, Ngài đã trở về thảo am.

đương thời Hiếu Minh vương Nguyễn Phúc Chu cảm phục đạo đức và danh tiếng của Ngài, muốn thỉnh Ngài vào cung, nhưng Ngài chỉ thích thanh tịnh, tự tại ở chốn Thiền lâm nên đã từ tạ lời thỉnh cầu mà không đến.

Ngoài thời gian tu luyện ở thảo am dưới chân núi Thiên Thai, Ngài còn khai sơn chùa Viên Thông, nơi đây vua quan và Phật tử thường tới lui học đạo. Mùa xuân năm Nhâm tuất (1742), Ngài chứng minh đại giới đàn tại chùa Viên Thông. đây là Phật sự tối hậu của cuộc đời Ngài.

Suốt hơn bảy mươi năm trong thế giới này, hơn bảy mươi mùa lá đổ mưa sa, nhưng nước đổ về nguồn, lá rơi về cội, đó là định kiến pháp nhĩ hiển nhiên. Cũng thế, tấm thân tứ đại của Ngài đã phân hóa hao mòn theo lớp bụi thời gian chồng chất. Mảnh cà sa phấn tảo năm nào bây giờ đã nhuộm đày phong sương trong suốt những tháng năm dài hoằng hóa và đã chọn vùng đất này làm chỗ sở quy thị hiện Niết bàn vào trưa 22 tháng 11 năm Nhâm tuất (1742) sau khi hội họp môn đồ lại để dạy bảo lần cuối cùng và phú kệ cho đồ chúng:

‘Thất thập dư niên thế giới trung,

Không không sắc sắc diệc dung thông,

Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý,

Hà tất bôn man vấn Tổ tông’.

(Ngoài bảy mươi năm trong thế giới,

Không không sắc sắc thảy dung thông,

Ngày nay nguyện mãn về quê cũ,

Nào phải ân cần hỏi Tổ tông?)

Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 3, chúa Nguyễn bấy giờ ban thụy hiệu là ‘Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng’. Ngài thọ 76 tuổi đời và 45 tuổi hạ. đệ tử xuất gia danh tiếng có 49 vị và rất đông đệ tử tại gia. Tang lễ của Ngài được tổ chức suốt gần 3 tháng, đến ngày 19 tháng 2 năm Quý hợi mới cung nghinh kim quan của Ngài an táng và được triều thần tôn tạo ngôi bảo tháp hùng vĩ đến ngày nay.

Sự thoát hóa quy Tây của Ngài đã để lại biết bao thương cảm. Dòng Hương giang soi bóng năm xưa bây giờ đã mất đi hình ảnh cố nhân và mây đỉnh Ngự bình như sững sờ không chịu cuốn theo chiều gió:

‘Núi Ngự tuần đầy mây chẳng rã,

Sông Hương ngày trọn nước không trôi’.

Bấy giờ chúng hậu còn ngậm ngùi nước mắt trông theo, và trên đỉnh cao thâm thiên giới một vì sao chợt biến giữa hoàn vũ bình nhiên đang đợi đón đưa Ngài vào cảnh giới bất diệt bất sinh.

Ngưỡng bạch Giác linh đại Lão Tổ sư,

Giờ đây, trước đỉnh trầm tỏa ngát hương từ, đàn hậu bối chúng con hiệp tụ về đây, ôn lại đời Ngài để học đòi đạo hạnh cao khiết, đức nhẫn nan suy, hiếu đạo trọn đường, pháp lưu sơn thủy.

Hồi tưởng lại ba trăm năm trước, đây là vùng rừng sâu núi thẳm, chân người tuyệt dấu,sơn lam chướng khí, thú dữ vây quanh, bao mối hiểm nguy thường xuyên đe dọa. Chúng con liên tưởng về những đêm đông giá rét mà Ngài trải qua ròng rã bảy năm dài, những đói lạnh làm sao tránh khỏi khi thiền sàng chỉ là bông cây thảm cỏ, rong xanh đáy hồ đã góp phần duy trì mạng mạch sắc thân. độc cư ở chốn u tịch hoang vu, một tiếng xào xạc cũng làm lạnh người rợn gáy... Thế nhưng tất cả đói lạnh hiểm nguy, sợ sệt đã lùi bước trước chí nguyện siêu phàm của Ngài.

Hơn hai thế kỷ rưỡi trôi qua, sau khi Ngài nhập diệt nhưng chúng sinh vẫn còn đó với nghiệp chướng sâu dày, giáo pháp nhiệm màu vô thượng vẫn còn đây. đệ tử chúng con nguyện bước theo gót chân Ngài với tất cả tấm lòng hưng đạo độ mê.

Bóng hình Ngài tuy không còn nữa nhưng đạo phong trác tuyệt xuất thế của Ngài đã nhuận đượm khắp cả khoảng thời gian vô cùng và không gian vô tận. Ân triêm ấy Ngài đã ban cho chúng con là cả một gia tài quý báu, chúng con nguyện khắc cốt ghi tâm và mãi mãi xứng danh là cháu con của một vị đắc truyền Tổ đạo Việt Nam.

Trong giờ phút linh thiêng và thanh tịnh này, nhạc thông gió ngàn tấu khúc hòa cùng thành tâm cung kính của đệ tử chúng con. Ngưỡng kính Giác linh Ngài phò trì gia bị cho chúng con đi trọn quãng đường còn lại trong sự nghiệp hoằng pháp độ sinh và tiến hành Phật sự đại trùng tu Tổ đình Thiền Tôn sớm được thành tựu viên mãn.

Chúng con thành kính đảnh lễ Giác linh Ngài.

Nam mô Lâm Tế Chánh tông tam thập ngũ thế khai sơn Thiên Thai Thiền Tôn tự, húy thượng Thật hạ Diệu hiệu Liễu Quán đại lão Tổ sư.

---o0o---

Trình bày: Quảng Hương

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2019(Xem: 9772)
Vào thập niên 20 của thế kỷ XX, khi vùng đất Đà Lạt- Lâm Đồng quanh năm sương mù giá rét còn được mang tên Đồng Nai Thượng (Province du Haut-Donnaï), bốn bế hoang vu với rừng núi ma thiêng nước độc, với thú dữ đầy hung hiểm, có một tăng nhân tuổi trạc trên hai mươi lăm đã đơn thân lặng lẽ rảo những bước chân chánh niệm tinh tấn khắp lối thấp nẻo cao, khắp vùng sâu chốn vắng, và sau cùng dừng lại giữa một ngọn đồi đầy lau sậy gai cỏ.
07/06/2019(Xem: 18792)
Trang nhà Quảng Đức vừa nhận được tin buồn: Hòa Thượng Thích Quảng Thanh (1951-2019),Thế danh: Dương Thanh Tùng, sinh quán: Thanh Lương, Bình Thuận. Ngài là một thi sĩ nổi tiếng với bút danh Thanh Trí Cao. HT là Viện Chủ Chùa Bảo Quang, Santa Ana Đ, miền nam California, Hoa Kỳ, Ngài đã thu thần viên tịch tại Chùa Bảo Quang. vào lúc 12:46am, Chủ Nhật, Ngày 9 Tháng 6 Năm 2019 (Nhằm Ngày 7 Tháng 5 Năm Kỷ Hợi) * Trụ thế: 68 năm & 44 Hạ Lạp. Chương trình tang lễ của Ngài sẽ được công bố sớm. Chúng con thành kính nguyện cầu Giác Linh Hòa Thượng Cao Đăng Phật Quốc. Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
24/05/2019(Xem: 9650)
“Xây chùa, tô tượng, đúc chuông Ba công đức ấy thập phương nên làm” “Phật Pháp xương minh do Tăng Già hoằng hóa Thiền môn hưng thịnh bởi Đàn Việt phát tâm”. Tu Viện Quảng Đức là ngôi nhà tâm linh cho cộng đồng người Việt từ năm 1990 tại vùng Tây-Bắc Melbourne, Úc Châu, và đến năm 2003 trong lễ Khánh Thành đã có tôn tượng Đức Phật Thích Ca thiền định trên tòa sen,
18/05/2019(Xem: 6480)
Cố chơn linh NGUYỄN VĂN BỐNSanh ngày: 20. 02. 1929 (11. 01. Kỷ Tỵ) tại thôn Đại Điền Đông, Diên Điền, Diên Khánh - Khánh Hòa. Trong một gia đình chánh tín Tam Bảo, là người con trai duy nhất trong năm chị em. Nội tổ Phụ qua đời khi Cố chơn linh lên 07 tuổi Lên năm 10 tuổi xuất gia tu học tại Tổ đình Chùa Thiên Quang, nay thuộc thị trấn Diên Khánh. Khánh Hòa. Qui y thọ phái, được Tổ Nhơn Duệ thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42 cho Pháp danh là Tâm Biên. Năm 14 tuổi Tổ cho đi thọ giới Sa Di tại giới đàn Chùa Kim Long, thôn Phú Hòa, xã Ninh Quang- Khánh Hòa và Tổ cho Pháp Tự là Thiện Hiền.
11/05/2019(Xem: 6527)
Nhân duyên từ chiếc đàn Xuất thân từ vùng đất Hobart, thủ phủ và cũng là thành phố lớn nhất bang Tasmania (Úc), có niềm đam mê piano sâu sắc và được biết đến như là một trong những nghệ sĩ nhạc jazz có phong cách ngẫu hứng và tự phát trong biểu diễn, Tom Vincent luôn mang đến cho khán giả các cung bậc cảm xúc khó tả khi xuất hiện trên sân khấu. Đặc biệt, có những lúc biểu diễn, anh lại hình thành thói quen trò chuyện với khán giả trong khi các ngón tay chạy từ phím nhạc này sang phím nhạc khác
03/05/2019(Xem: 7055)
Hoà thượng họ Vũ, huý là Thanh Quát, pháp hiệu là Thích Trung Quán, sinh trưởng trong một gia đình thiện lương làm nông. Cụ ông là Vũ Đình Duật và cụ bà là Nguyễn Thị Nhiên. Ngài ra đời vào ngày 9 tháng 6 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Hạ Kỳ, phủ Nghĩa Hưng, Tỉnh Nam Định, Bắc Việt. Gia đình gồm bốn người con, hai trai và hai gái. Ngài là người con trai thứ hai trong gia đình.
02/05/2019(Xem: 10150)
Trang Nhà Quảng Đức vừa nhận được tin L Ni Trưởng Thích Nữ Như Châu, Trụ trì Tổ đình Huê Lâm, Sài Gòn, vừa viên tịch Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN Phó trưởng Phân ban Ni giới Trung ương GHPGVN Phó trưởng Ban trị sự GHPGVN Thành phố Hồ Chí Minh Trưởng Phân ban Ni giới GHPGVN Thành phố Hồ Chí Minh Trụ trì Tổ đình Huê Lâm (Quận 11, TP. Hồ Chí Minh) Trụ trì Pháp Hoa Tịnh viện (Lâm Đồng)
01/05/2019(Xem: 9697)
HÒA THƯỢNG THÍCH NGUYÊN NHƯ Thành Viên Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử Gia Định, Việt Nam Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử Đức Thành Trụ trì chùa Tập Thành – Quận Bình Thạnh – Sài Gòn. Đã thu thần thị tịch lúc 16g36′ ngày 29/4/2019 Nhằm ngày 25 tháng 3 năm Kỷ Hợi Tại Tập Thành Cổ Tự – Quận Bình Thạnh – Sài Gòn Trụ thế 74 năm – 54 Hạ lạp. Lễ Nhập Kim Quan lúc 08g00 ngày 30/4/2019 (26.3. Kỷ Hợi) Tôn trí kim quan tại Tập Thành Cổ Tự, số 133 đường Ngô Đức Kế, phường 12, quận Bình Thạnh – Sài Gòn. Lễ Tưởng Niệm – Di Quan lúc 06g00 ngày 3/5/2019 (29.3. Kỷ Hợi) Sau đó cử hành Lễ Trà Tỳ tại đài hỏa táng nghĩa trang Phúc An Viên, quận 9, Sài Gòn. Nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Cố Hòa Thượng CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC
26/04/2019(Xem: 5882)
Chánh Trí Mai Thọ Truyền - một nhà Nho uyên bác, kiến thức tinh thông, quán triệt tư tưởng cả Nho - Lão - Phật. Ông xuất thân trên xứ dừa Đồng Khởi, nơi phát khởi bao tấm lòng yêu nước hy sinh của nhiều thế hệ. Là một nhân sĩ trí thức, có học vị cao, chức vụ lớn trong xã hội, nhưng Ông luôn nhân hậu với mọi người, chính trực trong công việc, từ hòa trong giao tiếp, đời sống thanh khiết, giản dị, luôn khắc kỹ bản thân. Khi bước vào đạo, Ông thọ Tam quy ngũ giới và được đặt pháp danh “Chánh Trí” từ Hòa thượng Thích Hành Trụ - một danh tăng kiệt xuất trong chốn tòng lâm phạm vũ của Phật giáo Việt Nam.
23/04/2019(Xem: 7147)
Cụ Chánh Trí – Mai Thọ Truyền ( Cụ - Cụ Chánh Trí ) sinh năm Ất Tỵ ( 1905 – 1973 ) , tại làng Long Mỹ , nay thuộc huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre.Ngày Cụ sinh ra, chỉ chưa đầy 30 năm trước đó thôi, triều đình nhà Nguyễn đã ký hòa ước Nhâm Tuất , nhường sáu tỉnh Miền Nam ( Thường được quen gọi là “Nam Kỳ Lục Tỉnh” ) cho thực dân Pháp, trong đó có quê hương Bến Tre của Cụ. Suốt cả quảng đời từ sơ học đến tiểu học, Cụ được học hành đầy đủ theo chương trình giáo dục hiện thời. Có lẽ, với sở học và trí phán đoán nhậy bén của mình, Cụ Chánh Trí không khỏi chạnh lòng khi liên tưởng các diễn biến lịch sử trên nơi mình sinh ra, để khi có điều kiện, lê
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]