Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 87: Phẩm Học Bát-Nhã 3

07/07/201516:32(Xem: 14821)
Quyển 87: Phẩm Học Bát-Nhã 3

Tập 02
Quyển 87
Phẩm Học Bát-Nhã 3
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bố thí Ba-la-mật-đa không có hai phần, có khả năng học ở tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở cái không nội không có hai phần, có khả năng học ở cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở chơn như không có hai phần, có khả năng học ở pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở Thánh đế khổ không có hai phần, có khả năng học ở Thánh đế tập, diệt, đạo không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bốn tịnh lự không có hai phần, có khả năng học ở bốn vô lượng, bốn định vô sắc không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở tám giải thoát không có hai phần, có khả năng học ở tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bốn niệm trụ không có hai phần, có khả năng học ở bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở pháp môn giải thoát không không có hai phần, có khả năng học ở pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở năm loại mắt không có hai phần, có khả năng học ở sáu phép thần thông không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở mười lực của Phật không có hai phần, có khả năng học ở bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở pháp không quên mất không có hai phần, có khả năng học ở tánh luôn luôn xả không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở trí nhất thiết không có hai phần, có khả năng học ở trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học tất cả pháp môn Đà-la-ni không có hai phần, có khả năng học tất cả pháp môn Tam-ma-địa không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc Dự-lưu không có hai phần, có khả năng học ở bậc Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả không có hai phần, có khả năng học ở bậc Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc Độc-giác không có hai phần, có khả năng học ở bậc Độc-giác hướng, Độc-giác quả không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc đại Bồ-tát không có hai phần, có khả năng học ở bậc Tam-miệu-tam Phật-đà không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở pháp đại Bồ-tát không có hai phần, có khả năng học ở quả vị giác ngộ cao tột không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở Thanh-văn thừa không có hai phần, có khả năng học ở Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của sắc mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thọ, tưởng, hành, thức mà học. Vì sao? Vì sắc uẩn v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của sắc xứ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học. Vì sao? Vì sắc xứ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của nhãn giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì nhãn giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì nhĩ giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tỷ giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì tỷ giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của thiệt giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì thiệt giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của thân giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì thân giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của ý giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì ý giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của địa giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học. Vì sao? Vì địa giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học. Vì sao? Vì Thánh đế khổ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của vô minh mà học, chẳng vì sự tăng giảm của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà học. Vì sao? Vì vô minh v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của cái không nội mà học, chẳng vì sự tăng giảm của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh mà học. Vì sao? Vì cái không nội v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của chơn như mà học, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà học. Vì sao? Vì chơn như v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của bốn tịnh lự mà học, chẳng vì sự tăng giảm của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học. Vì sao? Vì bốn tịnh lự v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tám giải thoát mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học. Vì sao? Vì tám giải thoát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của bốn niệm trụ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà học. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát không mà học, chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà học. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự tăng giảm của sáu phép thần thông mà học. Vì sao? Vì năm loại mắt v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của mười lực Phật mà học, chẳng vì sự tăng giảm của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học. Vì sao? Vì mười lực của Phật v.v không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tánh luôn luôn xả mà học. Vì sao? Vì pháp không quên mất v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của trí nhất thiết mà học, chẳng vì sự tăng giảm của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Dự-lưu mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà học. Vì sao? Vì Dự-lưu v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà học. Vì sao? Vì Độc-giác v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học. Vì sao? Vì đại Bồ-tát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của pháp đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự tăng giảm của quả vị giác ngộ cao tột mà học. Vì sao? Vì pháp của đại Bồ-tát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Thanh-văn thừa mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà học. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của sắc mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thọ, tưởng, hành, thức mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học. Vì sao? Vì sắc uẩn v.v... không có hai phần. 

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của nhãn xứ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của sắc xứ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học. Vì sao? Vì sắc xứ v.v... không có hai phần. 

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của nhãn giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì nhãn giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì nhĩ giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của tỷ giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tỷ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì tỷ giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của thiệt giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thiệt giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì thiệt giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của thân giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thân giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì thân giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của ý giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của ý giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì ý giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của địa giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của địa giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học. Vì sao? Vì địa giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế khổ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học. Vì sao? Vì Thánh đế khổ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của vô minh mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vô minh mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà học. Vì sao? Vì vô minh v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của cái không nội mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không nội mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh mà học. Vì sao? Vì cái không nội v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của chơn như mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chỉ là giả mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của chơn như mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà học. Vì sao? Vì chơn như v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của bố thí Ba-la-mật-đa mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của bốn tịnh lự mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn tịnh lự mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học. Vì sao? Vì bốn tịnh lự v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của tám giải thoát mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám giải thoát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học. Vì sao? Vì tám giải thoát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của bốn niệm trụ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn niệm trụ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo mà học. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát không mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát không mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà học. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của năm loại mắt mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của sáu phép thần thông mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sáu phép thần thông mà học. Vì sao? Vì năm loại mắt v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của mười lực Phật mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của mười lực Phật mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học. Vì sao? Vì mười lực của Phật v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp không quên mất mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tánh luôn luôn xả mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tánh luôn luôn xả mà học. Vì sao? Vì pháp không quên mất v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của trí nhất thiết mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí nhất thiết mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v... không có hai phần. 

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học. Vì sao? Vì pháp môn Đà-la-ni v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Dự-lưu mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự-lưu mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà học. Vì sao? Vì Dự-lưu v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà học. Vì sao? Vì Độc-giác v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của đại Bồ-tát mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học. Vì sao? Vì đại Bồ-tát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp đại Bồ-tát mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của quả vị giác ngộ cao tột mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp của đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của quả vị giác ngộ cao tột mà học. Vì sao? Vì pháp của đại Bồ-tát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Thanh-văn thừa mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thanh-văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà học. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa v.v... không có hai phần.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Này Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tỷ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thiệt giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thân giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của ý giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của địa giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vô minh mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không nội mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của chơn như mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn tịnh lự mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám giải thoát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn niệm trụ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát không mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sáu phép thần thông mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của mười lực Phật mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tánh luôn luôn xả mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí nhất thiết mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn Đà-la-ni mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn Tam-ma-địa mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự-lưu mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của quả vị giác ngộ cao tột mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thanh-văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà học chăng?

 

Quyển thứ 87

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/06/2013(Xem: 7924)
Tôi gặp Hòa thượng Nguyên Lai cũng nhờ Ni sư Nguyên Thanh (mà nay là Pháp vị Ni Trưởng Thích Nữ Nguyên Thanh, đương kim Viện chủ chùa An Lạc, San Jose). Trước tiên là cám ơn Ni trưởng Nguyên Thanh hằng năm cung thỉnh chúng tôi về chứng minh, thuyết giảng hầu hết những Đại lễ mà đặc biệt là vía đức Phật Di Đà. Kể từ khi Giáo chỉ số 9 ra đời, thì chúng tôi không còn diễn giảng hay chứng minh bất cứ một lễ nào nữa
05/06/2013(Xem: 16551)
Tôi vẫn thích thú và nhớ mãi cái thuở mới chân ướt chân ráo vào Chùa sinh hoạt, nhận lãnh công việc “gõ đầu trẻ” cho đám học sinh trường Việt ngữ Bồ Đề của Tu Viện Quảng Đức do Thầy Tâm Phương thành lập ...
05/06/2013(Xem: 11696)
Hàng ngàn Tăng Ni và Phật đang cung thỉnh chân dung Pháp tượng của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang tiến về Chánh Điện. Hàng ngàn Tăng Ni và Phật đang cung thỉnh chân dung Pháp tượng của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang tiến về Chánh Điện ...
01/06/2013(Xem: 7502)
Cái khó nhứt của tôi là viết về cha tôi , một người rất nổi tiếng trong giới nghiên cứu nhạc Việt Nam và Á châu . Nếu viết khen nhiều hơn chê thì thiên hạ sẽ cho là thiên vị, là người trong nhà khen lẫn nhau . Dù ai có muốn nói gì, nghĩ gì, đối với tôi không quan trọng . Tôi viết về cha tôi cũng như tôi đã viết về nhiều nhạc sĩ, ca sĩ khác . Tôi chỉ ghi những gì tôi biết về cha tôi với một cái nhìn khách quan tối đa . Nhân dịp Lễ Các Người Cha (Father's Day), tôi ghi lại một số hình ảnh của một người cha, một người thầy và một nhà nghiên cứu âm nhạc đã mang lại cho nền âm nhạc Việt Nam những hào quang rực rỡ chói sáng trên thế giới mà chưa có ai có thể làm được cho tới ngày hôm nay.
30/05/2013(Xem: 12485)
Trong suốt gần hai nghìn nămhiện diện trên quê hương, chưa bao giờ Phật giáo Việt Nam phải đối diện vớinhững đe dọa và thách thức trầm trọng như trong gần bốn mươi năm giữa thế kỷthứ 20. Đó là giai đoạn mà Phật giáo phải chịu tác động của 3 cuộc khủng hoảnglớn
25/05/2013(Xem: 15990)
Những sự kiện nổi bật nơi Thầy Minh Phát mà chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử quen biết xa gần đều rất khó quên : Nơi các Đại giới đàn, Thầy là vị dẫn lễ thân kính của các giới tử; nơi các đàn chẩn tế trong những ngày lễ hội lớn, Thầy là vị sám chủ uy nghiêm và gây ấn tượng mạnh trong lòng đai chúng; nơi các bịnh nhân, Thầy là vị lương y kỳ diệu, với một chai nước mát Thầy đọc vài câu Kinh ngắn chú nguyện, người bịnh mang về uống là có thể hết bịnh (đã có nhiều người hết bịnh nhờ uống những chai nước mát của Thầy cho); nơi các Tổ đình lớn, trong một số ngày lễ hội, khi cần - thầy là người “đầu bếp tài ba” v.v…
12/05/2013(Xem: 5463)
Lời Người Dịch: Hồ sơ này đã giải mật theo luật Hoa Kỳ -- tuy vẫn còn xóa trắng 2 dòng ở trang 1, và xóa trắng hai trang 3 và 4 -- sẽ cho thấy cách nhìn từ chính phủ Mỹ về tình hình Việt Nam trong thập niên 1960s. Hồ sơ này cho thấy đánh giá từ phía tình báo Hoa Kỳ về Thầy Thích Trí Quang và hoạt động của Phật Giáo VN trong năm 1966, tức là ba năm sau khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân. Một vài đánh giá trong bản văn này bây giờ đã thấy là không chính xác, khi Mỹ dựa vào suy đoán để gán ghép một mục tiêu chính trị nào đó cho một hay nhiều vị sư. Tuy nhiên, bản văn này cho thấy cái nhìn từ phía tình báo Hoa Kỳ đối với Phật Giáo trong tình hình lúc đó đang gay gắt, và sẽ chiếu rọi thêm một phần vào lịch sử phong trào Phật Giáo.
23/04/2013(Xem: 10290)
Quyển NGỮ LỤC này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư DUYÊN LỰC trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời. Cứ hằng tháng Ngài cho mở một khóa tu bảy ngày ở mỗi Thiền đường cho các hành giả tu Thiền, gọi là “đả thiền thất” để hướng dẫn đại chúng chuyên sâu trong sự nghiệp tu hành. Những lời dạy trước sau đều được đồ đệ ghi âm lại để làm tài liệu tham khảo.
23/04/2013(Xem: 6388)
Như đã kết thiện duyên từ thuở ấy, Giọt mưa trời tưới ngọt đất Hồ Nam. Tiêu phụ thân và từ mẫu họ Nhan Dòng vọng tộc, làm quan Thanh triều đại.
22/04/2013(Xem: 7201)
Kể từ khi loài người biết phát huy trí tuệ, chúng ta thấy rõ có hai khuynh hướng phát triển, khuynh hướng hướng nội và khuynh hướng hướng ngoại. Khuynh hướng hướng ngoại, gọi là ngoại quan, tức quan sát sự hiện hữu và diễn tiến của sự vật bên ngoài giúp cho con người có được nhận thức đúng đắn về sự sống của hiện tượng giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]