Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 87: Phẩm Học Bát-Nhã 3

07/07/201516:32(Xem: 14628)
Quyển 87: Phẩm Học Bát-Nhã 3

Tập 02
Quyển 87
Phẩm Học Bát-Nhã 3
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bố thí Ba-la-mật-đa không có hai phần, có khả năng học ở tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở cái không nội không có hai phần, có khả năng học ở cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở chơn như không có hai phần, có khả năng học ở pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở Thánh đế khổ không có hai phần, có khả năng học ở Thánh đế tập, diệt, đạo không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bốn tịnh lự không có hai phần, có khả năng học ở bốn vô lượng, bốn định vô sắc không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở tám giải thoát không có hai phần, có khả năng học ở tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bốn niệm trụ không có hai phần, có khả năng học ở bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở pháp môn giải thoát không không có hai phần, có khả năng học ở pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở năm loại mắt không có hai phần, có khả năng học ở sáu phép thần thông không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở mười lực của Phật không có hai phần, có khả năng học ở bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở pháp không quên mất không có hai phần, có khả năng học ở tánh luôn luôn xả không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở trí nhất thiết không có hai phần, có khả năng học ở trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học tất cả pháp môn Đà-la-ni không có hai phần, có khả năng học tất cả pháp môn Tam-ma-địa không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc Dự-lưu không có hai phần, có khả năng học ở bậc Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả không có hai phần, có khả năng học ở bậc Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc Độc-giác không có hai phần, có khả năng học ở bậc Độc-giác hướng, Độc-giác quả không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở bậc đại Bồ-tát không có hai phần, có khả năng học ở bậc Tam-miệu-tam Phật-đà không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở pháp đại Bồ-tát không có hai phần, có khả năng học ở quả vị giác ngộ cao tột không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học ở Thanh-văn thừa không có hai phần, có khả năng học ở Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của sắc mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thọ, tưởng, hành, thức mà học. Vì sao? Vì sắc uẩn v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của sắc xứ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học. Vì sao? Vì sắc xứ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của nhãn giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì nhãn giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì nhĩ giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tỷ giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì tỷ giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của thiệt giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì thiệt giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của thân giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì thân giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của ý giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì ý giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của địa giới mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học. Vì sao? Vì địa giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học. Vì sao? Vì Thánh đế khổ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của vô minh mà học, chẳng vì sự tăng giảm của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà học. Vì sao? Vì vô minh v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của cái không nội mà học, chẳng vì sự tăng giảm của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh mà học. Vì sao? Vì cái không nội v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của chơn như mà học, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà học. Vì sao? Vì chơn như v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của bốn tịnh lự mà học, chẳng vì sự tăng giảm của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học. Vì sao? Vì bốn tịnh lự v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tám giải thoát mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học. Vì sao? Vì tám giải thoát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của bốn niệm trụ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà học. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát không mà học, chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà học. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự tăng giảm của sáu phép thần thông mà học. Vì sao? Vì năm loại mắt v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của mười lực Phật mà học, chẳng vì sự tăng giảm của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học. Vì sao? Vì mười lực của Phật v.v không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tánh luôn luôn xả mà học. Vì sao? Vì pháp không quên mất v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của trí nhất thiết mà học, chẳng vì sự tăng giảm của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Dự-lưu mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà học. Vì sao? Vì Dự-lưu v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà học. Vì sao? Vì Độc-giác v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học. Vì sao? Vì đại Bồ-tát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của pháp đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự tăng giảm của quả vị giác ngộ cao tột mà học. Vì sao? Vì pháp của đại Bồ-tát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Thanh-văn thừa mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà học. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của sắc mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thọ, tưởng, hành, thức mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học. Vì sao? Vì sắc uẩn v.v... không có hai phần. 

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của nhãn xứ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của sắc xứ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học. Vì sao? Vì sắc xứ v.v... không có hai phần. 

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của nhãn giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì nhãn giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì nhĩ giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của tỷ giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tỷ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì tỷ giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của thiệt giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thiệt giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì thiệt giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của thân giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thân giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì thân giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của ý giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của ý giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà học. Vì sao? Vì ý giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của địa giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của địa giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học. Vì sao? Vì địa giới v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế khổ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học. Vì sao? Vì Thánh đế khổ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của vô minh mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vô minh mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà học. Vì sao? Vì vô minh v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của cái không nội mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không nội mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh mà học. Vì sao? Vì cái không nội v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của chơn như mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chỉ là giả mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của chơn như mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà học. Vì sao? Vì chơn như v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của bố thí Ba-la-mật-đa mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của bốn tịnh lự mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn tịnh lự mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học. Vì sao? Vì bốn tịnh lự v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của tám giải thoát mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám giải thoát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học. Vì sao? Vì tám giải thoát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của bốn niệm trụ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn niệm trụ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo mà học. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát không mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát không mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà học. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của năm loại mắt mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của sáu phép thần thông mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sáu phép thần thông mà học. Vì sao? Vì năm loại mắt v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của mười lực Phật mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của mười lực Phật mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà học. Vì sao? Vì mười lực của Phật v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp không quên mất mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tánh luôn luôn xả mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tánh luôn luôn xả mà học. Vì sao? Vì pháp không quên mất v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của trí nhất thiết mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí nhất thiết mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v... không có hai phần. 

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà học. Vì sao? Vì pháp môn Đà-la-ni v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Dự-lưu mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự-lưu mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà học. Vì sao? Vì Dự-lưu v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà học. Vì sao? Vì Độc-giác v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của đại Bồ-tát mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học. Vì sao? Vì đại Bồ-tát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp đại Bồ-tát mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của quả vị giác ngộ cao tột mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp của đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của quả vị giác ngộ cao tột mà học. Vì sao? Vì pháp của đại Bồ-tát v.v... không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát chẳng vì sự tăng giảm của Thanh-văn thừa mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà học không có hai phần thì đại Bồ-tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thanh-văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà học. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa v.v... không có hai phần.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Này Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tỷ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thiệt giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thân giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của ý giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của địa giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vô minh mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không nội mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của chơn như mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn tịnh lự mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám giải thoát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn niệm trụ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát không mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sáu phép thần thông mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của mười lực Phật mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tánh luôn luôn xả mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí nhất thiết mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn Đà-la-ni mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn Tam-ma-địa mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự-lưu mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tam-miệu-tam Phật-đà mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp đại Bồ-tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của quả vị giác ngộ cao tột mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ-tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thanh-văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà học chăng?

 

Quyển thứ 87

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/11/2019(Xem: 11665)
Do bệnh duyên, Hòa thượng đã thuận thế vô thường, thu thần thị tịch vào lúc 07giờ 30 phút, ngày 24 tháng 11 năm 2019 (Nhằm mùng 28 tháng 10 năm Kỷ Hợi) tại chùa Gia Khánh, thôn Vĩnh Hy, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. * Trụ thế : 66 năm * Hạ lạp : 44 năm
25/11/2019(Xem: 7806)
Vào lúc 21 giờ 00 ngày 24/11/2019 (nhằm ngày 28/10/Kỷ Hợi) tại chùa Vân Sơn, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước môn đồ pháp quyến cùng quý Thiện tín Phật tử đã trang nghiêm cử hành lễ nhập kim quan cố Thượng tọa Thích Vạn Tịnh, Phó Trưởng Ban Hướng dẫn Phật tử tỉnh Bình Định, Trưởng Ban Hoằng pháp huyện Tuy Phước, Trú trì chùa Vân Sơn.
24/11/2019(Xem: 21628)
Tâm Thư Kêu Gọi Ủng Hộ Ngân Quỹ Xây Dựng Chánh Điện Thiền Lâm Pháp Bảo tại Sydney, Úc Châu
18/11/2019(Xem: 5293)
Điếu Văn Tưởng Niệm Tổ Sư Minh Hải, Sơ Tổ Khai Tông Chúc Thánh pháp phái (7-11-AL) Nhớ khi xưa: Xứ Hoa Hạ sanh Bậc Thượng nhơn Đất Tuyền Châu dưỡng người tri thức. Truyền đời Gia tông, kế thừa LƯƠNG tộc Nhập môn thiền thất, lãnh thọ THÍCH CA. Giới đàn cụ túc, thoát ta bà Tâm ấn tương truyền, nương LÂM TẾ. Lạy Đức Bổn sư, từ giã Trung Hoa quê nhà, phương Nam hoằng hóa. Hứa khả Chúa tiên, chào đón Nam thiên Kinh kỳ, Đông hải vượt khơi. Vâng lời Phật dạy, Thiên Trúc sơ khai, kiến lập Giới đàn Đáp sự thỉnh cầu, Linh Mụ thập sư, trao truyền chánh pháp.
17/11/2019(Xem: 8148)
Phật Giáo Việt Nam được truyền thừa tương truyền đến ngày hôm nay, trải dài ba miền Bắc Trung Nam và đến hôm nay trải khắp bốn châu hải ngoại. Âu cũng là nhờ hồng ân Tam Bảo gia hộ và Lịch Đại Tổ Sư truyền thừa. Một trong những dòng truyền thừa Chánh Tông, đó là dòng Lâm Tế pháp phái Liểu Quán đời thứ 35 chánh truyền từ dòng Lâm Tế Nghĩa Huyền.
10/11/2019(Xem: 4814)
Nhẹ nhàng như những áng mây trôi lơ lững và bay khắp thế giới, đến và đi không vướng bận tơ hào…Nhân ảnh Ôn đã đến và ngự trị trong lòng con như thế đó ! Nhưng không phải là một áng mây trắng bồng bềnh và vô định, mà Ôn là một áng Hương Vân thơm lừng tỏa ngát....hiền hòa và bình dị đối với một môn hạ nhỏ bé như con. Hôm nay áng Hương vân không phải như thần tượng.. mà thân thiết,quý kính trong hồn con đã thật sự bay xa rồi sao?? Câu hỏi để như còn bao tiếc quý chưa trọn vẹn của một môn sinh suốt đời ngưỡng vọng về Ôn của chúng con.
09/11/2019(Xem: 18206)
HT.Thích Hải Ấn, trụ trì chùa Từ Đàm cho biết, theo lời di huấn của Đại lão Hòa thượng Ân sư Thích Trí Quang, sau khi ngài viên tịch 6 giờ sẽ nhập liệm, sau đó sẽ thiêu, không báo tang, không thành phục, không phúng điếu.
31/10/2019(Xem: 6230)
Thật là 1 phước duyên khi được gần gũi, thân cận và làm tập phim tiểu sử cuộc đời của Ôn Thắng Hoan. Bởi vì ngoài chuyện Ôn là bậc cao niên lạp trưởng của Tăng Già Hải Ngoại, Ôn còn là bậc uyên thâm Phật Pháp, đặc biệt là môn Duy thức. Xin cúi đầu kính thỉnh chư Tôn Đức Tăng Ni và đại chúng cùng đón xem... Nam Mô A Di Đà Phật
31/10/2019(Xem: 7461)
Trần Nhân Tông (1258 - 1308) còn có ngoại hiệu Trúc Lâm Đại Sỹ là một khuôn mặt lớn của nền văn học thi ca của Việt Nam và Phật Giáo. Một vị thiền tổ mà năng lực giác ngộ tỏa sáng rực rỡ trên bầu trời dân tộc và đạo pháp. Con người đó, siêu việt trong mọi tư duy và hành động, hoàn thành sứ mạng cao cả. Nhân cách đó, làm rạng rỡ cho giống nòi và gia phong của đạo. Tư tưởng đó, nhân bản và giải thoát, chuyên chở gánh trọn nỗi niềm chung riêng của dân tộc và đạo pháp một cách toàn thiện.
20/10/2019(Xem: 4424)
Viện chủ TỔ ĐÌNH SẮC TỨ TỪ QUANG (Đá Trắng - Phú Yên) Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]