Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 5: Phẩm Tương Ưng 02

22/06/201519:54(Xem: 13886)
Quyển 5: Phẩm Tương Ưng 02

Tập 01
Quyển 05
Phẩm Tương Ưng 02




 

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với sắc. Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhãn xứ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với sắc xứ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhãn giới, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với sắc giới, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhãn thức giới, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhãn xúc, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với địa giới, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhơn duyên, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với sở duyên duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với các pháp do duyên sanh ra.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với vô minh, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, lo, phiền.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với cõi Dục, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với cái không nội, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không không nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với chơn như, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh không đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cõi hư không, cõi không thể nghĩ bàn.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bốn niệm trụ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với thánh đế khổ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với thánh đế tập, diệt, đạo.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với mười thiện nghiệp đạo, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với năm giới cận sự, tám giới cận trụ.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với việc làm phước mang tính bố thí, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với việc làm phước mang tính giữ  giới, mang tính tu hành.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bốn tịnh lự, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tám giải thoát, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với pháp môn giải thoát không, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bậc Cực hỷ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với năm loại mắt, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với sáu pháp thần thông.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với mười lực của Phật, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với ba mươi hai tướng đại sĩ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tám mươi vẻ đẹp kèm theo.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với pháp không quên mất, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tánh luôn luôn xả.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với trí nhất thiết, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết tướng vi diệu, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với trí nhất thiết trí.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với việc bứng gốc vĩnh viễn tất cả phiền não, thói xấu nhiều đời.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với quả Dự-lưu, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với quả vị Độc-giác, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tất cả hạnh đại Bồ-tát, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.

Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với ngã, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự  trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sinh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy.

Xá Lợi Tử! Nên biết, các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì những nhân duyên ấy nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương ưng giữa cái không với cái không, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương ưng giữa cái vô tướng với cái vô tướng, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương ưng giữa cái vô nguyện với cái vô nguyện. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì không, vô tướng, vô nguyện đều không có tương ưng, chẳng tương ưng.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đã thể nhập cái không tự tướng của tất cả pháp rồi, thì chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng của sắc, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương ưng của thọ, tưởng, hành, thức.

Vị đại Bồ-tát ấy, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa sắc với đời trước. Vì sao? Vì chẳng thấy đời trước; chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa thọ, tưởng, hành, thức với đời trước. Vì sao? Vì chẳng thấy đời trước.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa sắc với đời sau. Vì sao? Vì chẳng thấy đời sau, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa thọ, tưởng, hành, thức với đời sau. Vì sao? Vì chẳng thấy đời sau.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa sắc với hiện tại. Vì sao? Vì chẳng thấy hiện tại, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa thọ, tưởng, hành, thức với hiện tại. Vì sao? Vì chẳng thấy hiện tại.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa đời trước với đời sau, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa đời trước với hiện tại.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa đời sau với đời trước, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa đời sau với hiện tại.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa hiện tại với đời trước, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa hiện tại với đời sau.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa đời trước với đời sau và hiện tại.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa đời sau với đời trước và hiện tại.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa hiện tại với đời trước và đời sau.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa đời trước, đời sau, hiện tại. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì ba đời đều không.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với quá khứ. Vì sao? Vì quá khứ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với quá khứ.

 Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với vị lai. Vì sao? Vì vị lai còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với vị lai.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với hiện tại. Vì sao? Vì hiện tại còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với hiện tại.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sắc. Vì sao? Vì sắc còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sắc.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn xứ.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sắc xứ. Vì sao? Vì sắc xứ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sắc xứ.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn giới. Vì sao? Vì nhãn giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn giới.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết trí với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sắc giới. Vì sao? Vì sắc giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sắc giới.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn thức giới. Vì sao? Vì nhãn thức giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn thức giới.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn xúc. Vì sao? Vì nhãn xúc còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn xúc.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với địa giới. Vì sao? Vì địa giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với địa giới.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhơn duyên. Vì sao? Vì nhơn duyên còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhơn duyên.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các duyên khác sanh ra. Vì sao? Vì các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các duyên khác sanh ra còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và các duyên khác sanh ra.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với vô minh. Vì sao? Vì vô minh còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với vô minh.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, lo, phiền. Vì sao? Vì từ hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, lo, phiền còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, lo, phiền.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bố thí Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bố thí Ba-la-mật-đa.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với cái không nội. Vì sao? Vì cái không nội còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với cái không nội.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không không nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với cái không ngoại, cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn niệm trụ. Vì sao? Vì bốn niệm trụ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn niệm trụ.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thánh đế khổ. Vì sao? Vì thánh đế khổ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thánh đế khổ.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì thánh đế tập, diệt, đạo còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn tịnh lự. Vì sao? Vì bốn tịnh lự còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn tịnh lự.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

  Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám giải thoát. Vì sao? Vì tám giải thoát còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám giải thoát.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với pháp môn giải thoát không. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với pháp môn giải thoát không.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tất cả pháp môn Đà-la-ni. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tất cả pháp môn Đà-la-ni.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bậc Cực hỷ. Vì sao? Vì bậc Cực hỷ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bậc Cực hỷ.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân. Vì sao? Vì từ bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với năm loại mắt.Vì sao? Vì năm loại mắt còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với năm loại mắt.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sáu phép thần thông. Vì sao? Vì sáu phép thần thông còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với mười lực của Phật. Vì sao? Vì mười lực của Phật còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với mười lực của Phật.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với ba mươi hai tướng đại sĩ. Vì sao? Vì ba mươi hai tướng đại sĩ còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với ba mươi hai tướng đại sĩ.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám mươi vẻ đẹp kèm theo. Vì sao? Vì tám mươi vẻ đẹp kèm theo còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám mươi vẻ đẹp kèm theo.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với pháp không quên mất. Vì sao? Vì pháp không quên mất còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với pháp không quên mất.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì tánh luôn luôn xả còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với trí nhất thiết. Vì sao? Vì trí nhất thiết còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với trí nhất thiết.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Phật. Vì sao? Vì Phật còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Phật.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-đề còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Bồ-đề.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Phật, cũng chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa Phật với trí nhất thiết. Vì sao? Vì trí nhất thiết tức là Phật, Phật tức là trí nhất thiết.

Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Bồ-đề; chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa Bồ-đề với trí nhất thiết. Vì sao? Vì trí nhất thiết tức là Bồ-đề, Bồ-đề tức là trí nhất thiết.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng đắm vào cái có của sắc, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của sắc, chẳng đắm vào cái có của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của thọ, tưởng, hành, thức.

Chẳng đắm vào cái thường của sắc, chẳng đắm vào cái vô thường của sắc, chẳng đắm vào cái thường của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đắm vào cái vô thường của thọ, tưởng, hành, thức.

Chẳng đắm vào cái vui của sắc, chẳng đắm vào cái khổ của sắc chẳng đắm vào cái vui của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đắm vào cái khổ của thọ, tưởng, hành, thức.

Chẳng đắm vào cái ngã của sắc, chẳng đắm vào cái vô ngã của sắc, chẳng đắm vào cái ngã của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đắm vào cái vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức.

Chẳng đắm vào cái tịch tịnh của sắc, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của sắc; chẳng đắm vào cái tịch tịnh của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của thọ, tưởng, hành, thức.

Chẳng đắm vào cái không của sắc, chẳng đắm vào cái chẳng không của sắc; chẳng đắm vào cái không của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đắm vào cái chẳng không của thọ, tưởng, hành, thức.

Chẳng đắm vào cái vô tướng của sắc, chẳng đắm vào cái hữu tướng của sắc; chẳng đắm vào cái vô tướng của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đắm vào cái hữu tướng của thọ, tưởng, hành, thức.

Chẳng đắm vào cái vô nguyện của sắc, chẳng đắm vào cái hữu nguyện của sắc; chẳng đắm vào cái vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đắm vào cái hữu nguyện của thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng đắm vào cái có của nhãn xứ, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của nhãn xứ; chẳng đắm vào cái có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Chẳng đắm vào cái thường của nhãn xứ, chẳng đắm vào cái vô thường của nhãn xứ; chẳng đắm vào cái thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đắm vào cái vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Chẳng đắm vào cái vui của nhãn xứ, chẳng đắm vào cái khổ của nhãn xứ; chẳng đắm vào cái vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đắm vào cái khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Chẳng đắm vào cái ngã của nhãn xứ, chẳng đắm vào cái vô ngã của nhãn xứ; chẳng đắm vào cái ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đắm vào cái vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Chẳng đắm vào cái tịch tịnh của nhãn xứ, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của nhãn xứ; chẳng đắm vào cái tịch tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Chẳng đắm vào cái không của nhãn xứ, chẳng đắm vào cái chẳng không của nhãn xứ; chẳng đắm vào cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đắm vào cái chẳng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Chẳng đắm vào cái vô tướng của nhãn xứ, chẳng đắm vào cái hữu tướng của nhãn xứ; chẳng đắm vào cái vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đắm vào cái hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Chẳng đắm vào cái vô nguyện của nhãn xứ, chẳng đắm vào cái hữu nguyện của nhãn xứ; chẳng đắm vào cái vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đắm vào cái hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng đắm vào cái có của sắc xứ, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của sắc xứ; chẳng đắm vào cái có của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Chẳng đắm vào cái thường của sắc xứ, chẳng đắm vào cái vô thường của sắc xứ; chẳng đắm vào cái thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đắm vào cái vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Chẳng đắm vào cái vui của sắc xứ, chẳng đắm vào cái khổ của sắc xứ; chẳng đắm vào cái vui của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đắm vào cái khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Chẳng đắm vào cái ngã của sắc xứ, chẳng đắm vào cái vô ngã của sắc xứ; chẳng đắm vào cái ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đắm vào cái vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Chẳng đắm vào cái tịch tịnh của sắc xứ, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của sắc xứ; chẳng đắm vào cái tịch tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Chẳng đắm vào cái không của sắc xứ, chẳng đắm vào cái chẳng không của sắc xứ; chẳng đắm vào cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đắm vào cái chẳng không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Chẳng đắm vào cái vô tướng của sắc xứ, chẳng đắm vào cái hữu tướng của sắc xứ; chẳng đắm vào cái vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đắm vào cái hữu tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Chẳng đắm vào cái vô nguyện của sắc xứ, chẳng đắm vào cái hữu nguyện của sắc xứ; chẳng đắm vào cái vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đắm vào cái hữu nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng đắm vào cái có của nhãn giới, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của nhãn giới; chẳng đắm vào cái có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Chẳng đắm vào cái thường của nhãn giới, chẳng đắm vào cái vô thường của nhãn giới; chẳng đắm vào cái thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đắm vào cái vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Chẳng đắm vào cái vui của nhãn giới, chẳng đắm vào cái khổ của nhãn giới; chẳng đắm vào cái vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đắm vào cái khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Chẳng đắm vào cái ngã của nhãn giới, chẳng đắm vào cái vô ngã của nhãn giới; chẳng đắm vào cái ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đắm vào cái vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Chẳng đắm vào cái tịch tịnh của nhãn giới, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của nhãn giới; chẳng đắm vào cái tịch tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Chẳng đắm vào cái không của nhãn giới, chẳng đắm vào cái chẳng không của nhãn giới; chẳng đắm vào cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đắm vào cái chẳng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Chẳng đắm vào cái vô tướng của nhãn giới, chẳng đắm vào cái hữu tướng của nhãn giới; chẳng đắm vào cái vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đắm vào cái hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Chẳng đắm vào cái vô nguyện của nhãn giới, chẳng đắm vào cái hữu nguyện của nhãn giới; chẳng đắm vào cái vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới,chẳng đắm vào cái hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng đắm vào cái có của sắc giới, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của sắc giới; chẳng đắm vào cái có của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Chẳng đắm vào cái thường của sắc giới, chẳng đắm vào cái vô thường của sắc giới; chẳng đắm vào cái thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng đắm vào cái vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Chẳng đắm vào cái vui của sắc giới, chẳng đắm vào cái khổ của sắc giới; chẳng đắm vào cái vui của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng đắm vào cái khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Chẳng đắm vào cái ngã của sắc giới, chẳng đắm vào cái vô ngã của sắc giới; chẳng đắm vào cái ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng đắm vào cái vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Chẳng đắm vào cái tịch tịnh của sắc giới, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của sắc giới; chẳng đắm vào cái tịch tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Chẳng đắm vào cái không của sắc giới, chẳng đắm vào cái chẳng không của sắc giới; chẳng đắm vào cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng đắm vào cái chẳng không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Chẳng đắm vào cái vô tướng của sắc giới, chẳng đắm vào cái hữu tướng của sắc giới; chẳng đắm vào cái vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng đắm vào cái hữu tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Chẳng đắm vào cái vô nguyện của sắc giới, chẳng đắm vào cái hữu nguyện của sắc giới; chẳng đắm vào cái vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng đắm vào cái hữu nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng đắm vào cái có của nhãn thức giới, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của nhãn thức giới; chẳng đắm vào cái có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đắm vào cái chẳng phải có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Chẳng đắm vào cái thường của nhãn thức giới, chẳng đắm vào cái vô thường của nhãn thức giới; chẳng đắm vào cái thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đắm vào cái vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Chẳng đắm vào cái vui của nhãn thức giới, chẳng đắm vào cái khổ của nhãn thức giới; chẳng đắm vào cái vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đắm vào cái khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Chẳng đắm vào cái ngã của nhãn thức giới, chẳng đắm vào cái vô ngã của nhãn thức giới; chẳng đắm vào cái ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đắm vào cái vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Chẳng đắm vào cái tịch tịnh của nhãn thức giới, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của nhãn thức giới; chẳng đắm vào cái tịch tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đắm vào cái chẳng tịch tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Chẳng đắm vào cái không của nhãn thức giới, chẳng đắm vào cái chẳng không của nhãn thức giới; chẳng đắm vào cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đắm vào cái chẳng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Chẳng đắm vào cái vô tướng của nhãn thức giới, chẳng đắm vào cái hữu tướng nhãn thức giới; chẳng đắm vào cái vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đắm vào cái hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Chẳng đắm vào cái vô nguyện của nhãn thức giới, chẳng đắm vào cái hữu nguyện của nhãn thức giới; chẳng đắm vào cái vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đắm vào cái hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 

Quyển thứ 05
HẾT

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/06/2017(Xem: 21218)
Sư Trưởng pháp húy Hải Triều Âm, tự Đại Thành, hiệu Bác Tế Từ Hòa, thế danh Nguyễn Thị Ni, sinh năm 1920 tại tỉnh Hà Đông, nay thuộc thủ đô Hà Nội. Thân phụ là một công chức người Pháp, cụ ông Etienne Catallan. Thân mẫu là một y sĩ người Việt, cụ bà Nguyễn Thị Đắc. Vì thế Sư Trưởng còn có tên thế tục tiếng Pháp là Eugénie Catallan.
20/05/2017(Xem: 6714)
Gần như một quy luật tất yếu khi nói đến Hòa Thượng Lê Khánh Hòa ( 1877 - 1947 ) ( Tổ Khánh Hòa - Ngài) phải đề cập đến phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX . Cả một cuộc đời dấn thân trên lộ trình tiến tu giải thoát, luôn nặng gánh ưu tư cho tiền đồ Phật giáo trước mối suy vong song hành cùng vận mệnh dân tộc dưới gót giày xâm lược của giặc Pháp. Là một tăng sĩ với trọng trách "sứ giã Như Lai", Tổ Khánh Hòa đã sớm nhận thức rõ trách nhiệm cao cả ấy và vận dụng đạo đức, năng lực bản thân tữ mình thắp lên ngọn đuốc tiên phong, vén màn đêm dày đặc, bước đi từng bước nhọc nhằn, khó khăn ban đầu để tạo nên một luồng gió chấn hưng mang vô vàn lợi lạc cho Phật giáo mà cho đến tận hôm nay sử sách vẫn còn ghi đậm những dòng chữ vàng son óng ánh chưa hề phai nhạt.
22/04/2017(Xem: 9114)
CT HTB số 205 cho thứ 7 ngày 22/4/2017 Chủ đề: Nhân ngày lễ Phật Đản ôn lại Tổ sư Thiền của Phật giáo Việt Nam. Thành viên thực hiện: Lâm Như Tạng, Lê Tâm.
19/04/2017(Xem: 6128)
Đã 42 năm sau cuộc Chiến tranh Việt Nam, vẫn còn những câu hỏi chưa có lời giải đáp. Chỉ riêng tên tuổi Thích Trí Quang đã gây ra rất nhiều tranh cãi. (1) Có nhiều nhãn hiệu gán cho ông: với một số người Việt chống cộng hoặc còn suy tôn ông Diệm thì cả quyết Thích Trí Quang là cộng sản đội lốt tu hành hoạt động với sự chỉ đạo của Hà Nội; nhưng ngay với giới chức cộng sản cũng đã từng coi Trí Quang là một loại CIA chiến lược; còn
15/04/2017(Xem: 8134)
Thiền Sư Pháp Loa với công trình văn hóa đời Trần
01/04/2017(Xem: 14607)
Trọn một ngày làm nhà tu hành – ăn như sư, ngủ cạnh sư, thiền và đọc kinh cùng sư, lao động cùng sư. Có những lúc đã cảm thấy phát điên về sự chậm rãi trong hoạt động, sự khắc khổ trong cuộc sống. Nhưng cũng ngộ ra nhiều điều! Và 24 giờ đó quả là kinh nghiệm đặc biệt trong đời làm báo. Vào những tháng đông đầu năm 1998, khi đang làm việc cho đài phát thanh NHK của Nhật Bản, tôi đề xuất chủ đề tôn giáo với mục đích giới thiệu đầy đủ hơn về các đạo tồn tại ở Nhật cho thính giả Việt Nam, bên cạnh Thần đạo đã được nói đến quá nhiều. Nhưng việc đi thực tế trong lĩnh vực này không đơn giản. May được một đồng nghiệp người Nhật tích cực tìm kiếm và phát hiện một ngôi chùa có thu nhận người nước ngoài. Mọi công việc thu xếp qua điện thoại và… email do người bạn Nhật đảm trách, và đúng ngày hẹn tôi khoác balô lên đường.
24/03/2017(Xem: 8559)
Theo Dương Lịch, 23 tháng Ba là ngày giỗ của Huynh Trưởng Tâm Huệ Cao Chánh Hựu. Tôi chợt nhớ đến bài thơ viết để tiễn biệt anh và cũng để nhắc nhở các anh chị em Gia Đình Phật Tử khắp nơi biết ngày anh ra đi. Bài thơ khá dài và kết luận bằng câu “Và đừng xa nhau nữa”.
18/03/2017(Xem: 7362)
Di cốt của vị thiền sư đã khai sáng ra dòng thiền Lâm Tế - Liễu Quán ở đàng Trong - dòng thiền thứ hai sau thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, được nhập vào một ngôi tháp cổ kính ở xứ Huế. Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) là người đã khai sáng ra chi phái Thiền mới (Thiền phái Liễu Quán), mang đậm phong cách của Văn hóa phật giáo Việt Nam còn truyền lại đến ngày nay. Sau khi viên tịch, di cốt của thiền sư được nhập vào bảo tháp thuộc vùng rừng thông của làng An Cựu xưa (Thừa Thiên Huế). Đây là một ngôi tháp đẹp, cổ kính và uy nghiêm. Nhiều du khách lần đầu đến Huế, nếu không biết thì có thể nhầm đây là lăng tẩm của một vua chúa nào đó của triều Nguyễn bởi quy mô xây dựng, kiến trúc và địa thế phong thủy của bảo tháp.
06/03/2017(Xem: 7123)
Nhân lễ húy nhật lần thứ 18 Sư Bà Thích Đàm Lựu, vị Thầy sáng lập chùa Đức Viên vào năm 1980 tại thành phố San Jose, Hoa Kỳ; chùa Đức Viên đã tổ chức khóa niệm Phật báo ân trong hai tuần, từ ngày 18 tháng 02 đến ngày 04 tháng 3 năm 2017. Buổi lễ tưởng niệm chính thức được tổ chức vào sáng ngày 04 tháng 3 năm 2017. Đặc biệt, vào tối ngày 03 tháng 3 năm 2017, chùa đã tổ chức đêm đốt nến tưởng niệm Sư Bà, vị Thầy kính yêu của Ni chúng. Đêm huyền diệu với tiếng tụng kinh cầu nguyện, những lời tâm sự bên những ngọn nến lung linh, những giọt nước mắt chảy dài trên má chư Ni và Phật tử. Buổi lễ diễn ra trang nghiêm, thành kính, tràn đầy cảm xúc, lòng kính thương vô biên Sư Bà tọa chủ!
04/03/2017(Xem: 10054)
Xuất gia là một đại nguyện. Giữ được Tâm trong không thối chuyển là một đại duyên. Tại Việt Nam hôm nay, nếu lấy tròn số sẽ có 45.000 tu sĩ Phật giáo với dân số 100.000.000 người thì trung bình cứ 2.200 người mới có một người đi tu theo đạo Phật. Tại Hoa Kỳ hôm nay, ước lượng có 1.200 tu sĩ Phật giáo trên tổng số 2.000.000 người Việt thì trung bình cứ 1.600 người có một tu sĩ Phật giáo. Con số tự nó không đánh giá chân xác được tình trạng tôn giáo và chiều sâu hành đạo của các tu sĩ thuộc tôn giáo đó. Nhưng ít nhiều phản ánh được những nét tổng thể của mối quan hệ giữa quần chúng và tổ chức tôn giáo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]