Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Đức Nhuận (1924-2001)

09/04/201319:50(Xem: 9655)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Đức Nhuận (1924-2001)

HT. Thich Duc Nhuan


TIỂU SỬ
HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỨC NHUẬN


 

THÂN THẾ :

Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924).

Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần).

Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).

XUẤT GIA :

Xuất gia năm 1937 (do nhân duyên đọc báo Đuốc Tuệ mà giác ngộ). Y chỉ sư là Hòa thượng Thích (thượng) TÂM (hạ) THƯỞNG, trụ trì chùa làng Liêu-Hải, phủ Nghĩa Hưng, thuộc Sơn môn Phú Ninh (Nam Định).

Năm 1941, thụ Sa di giới tại chùa Cổ Lễ, huyện Trực Ninh.

Năm 1943, thụ đại giới Tỳ Khưu tại giới đàn Tổ đình Phú Ninh. Đã học tại các Tùng Lâm :

- Tổ đình Phú Ninh

- Phật học viện chùa Cồn (Nam Định)

- Tổ đình Tế Xuyên (Hà Nam)

- Phật học viện Báo Quốc (Huế)

- Phật học đường Ấn Quang (Sài Gòn)

ĐẠO NGHIỆP :

Năm 1949, chính thức hoạt động Phật sự với chức vụ phó chủ tịch Hội Phật Giáo Nam Định (Miền Xuân Trường Hải Hậu); chủ tịch là Hòa thượng THÍCH TRUNG QUÁN, trụ trì chùa làng Quần Thượng (Hải Hậu) và cuối năm 1950, xin từ chức trở về sống nếp sống của một tăng sĩ, tiếp tục sự nghiệp học vấn và nghiên cứu Phật học.

Đầu năm 1954 vào Nam sống cuộc đời tĩnh tu.

Năm 1956-57, được sự tín nhiệm của chư Tăng cử giữ chức chủ tịch (Trị sự trưởng) giáo hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam (GHTGVN).

Năm 1959-61, giữ chức ủy viên văn hóa Tổng hội Phật giáo Việt Nam.

Năm 1960-61, tái nhận chức chủ tịch GHTGBV tại Miền Nam.

Năm 1962-63, đảm nhận chức tổng thư ký giáo hội Tăng Già Việt Nam.

Năm 1963, khởi động phong trào đầu tiên chống chế độ độc tài nhà Ngô (tại Sài Gòn) trong vụ triệt hạ cờ Phật Giáo và đàn áp Phật tử tại Huế, nhân mùa Phật Đản PL 1507 (1963).

Năm 1964-65, giữ chức vụ trưởng Vụ kiểm duyệt GHPGVNTN.

Năm 1965-66, chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Vạn Hạnh, tạp chí nghiên cứu, phát huy Văn hóa Phật giáo và văn hóa Dân tộc, với sự cộng tác của một số học giả, giáo sư đại học, văn nghệ sĩ tại thủ đô Sài Gòn (tạp chí xuất bản được tròn 2 năm, 24 số).

Năm 1969-70, giáo sư Phân khoa Phật học và Triết học Đông phương Viện Đại học Vạn Hạnh (sau niên khóa đó, vì bận công việc nên đã xin nghỉ dạy).

Năm 1967-73, giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, do đức Tăng Thống THÍCH TỊNH KHIẾT lãnh đạo và là hội viên Hội đồng giáo phẩm trung ương GHPGVNTN.

Năm 1969-71, trùng tu tổ đình Giác Minh. Nguyên trụ sở giáo hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam.

Năm 1971-72, chủ bút nguyệt san Hóa Đạo, cơ quan truyền bá chính pháp của Tổng Hoằng pháp GHPGVNTN.

Năm 1975-81, giữ chức trụ trì tổ đình Giác Minh.

Năm 1985-93, bị Nhà nước Việt Nam bắt giam với tội danh "tổ chức chống cách mạng".

Từ năm 1993:, tĩnh tu chùa Giác Minh, Sàigòn. Hòa Thượng vẫn tiếp tục đọc, viết và ưu tư về đường hướng phát triển của Phật giáo Việt Nam.

Từ năm 1999 : được cung cử vào chức vụ Cố vấn Ban Chỉ Đạo Viên Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Đã viết cho các Nhật Báo : Thời Luận, Tín Sáng, Dân Chủ, Gió Nam và các tạp chí : Phật giáo Việt Nam, Văn Hóa Á Châu, Liên Hoa, Văn, Vấn đề, Tư tưởng...

Đã diễn thuyết về đề tài Phật giáo và Văn hóa Dân tộc tại các trường Đại học :

- Trường Đại Học Văn khoa Sài Gòn (1959)

- Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn (1963)

- Viện Phật Học Vạn Hạnh (1970)

và đã đề tựa cùng giới thiệu những tác giả và tác phẩm có giá trị về mặt tôn giáo và về văn học.

* Tác phẩm đã in :

- GIÓ THIÊNG (Thơ) Vạn Hạnh, 1959

- PHẬT HỌC TINH HOA, Một Tổng Hợp Đạo Lý (đã tái bản 4 lần), Vạn Hạnh, 1960.

- CHUYỂN HIỆN ĐẠO PHẬT VÀO THỜI ĐẠI, Vạn Hạnh, 1967.

-TRAO CHO THỜI ĐẠI MỘT NỘI DUNG PHẬT CHẤT (sách đã dịch ra Anh ngữ, Vạn Hạnh, 1969).

- SỨ MỆNH NGƯỜI PHẬT TỬ ĐỐI VỚI DÂN TỘC VÀ ĐẠO PHÁP

- KIẾN THIẾT VĂN MINH PHẬT GIÁO

- ĐẠO PHẬT VÀ DÒNG SỬ VIỆT

(ba tác phẩm này do Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành, 1995-1996).Và tái bản tạiSài Gòn năm 1997

- THƠ : Sáng một niềm tin (Dịch và sáng tác từ năm 1975 đến nay), Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành, 1999.

- HƯỚNG ĐI CỦA THỜI ĐẠI , Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành, 2001.

* Dịch kinh :

- NHỮNG ĐIỀU PHẬT DẠY - Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương

- LỜI DẠY CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT - Thùy Bát Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh.

(Cả hai tác phẩm trên nguyên văn chữ Hán trích trong "Thánh điển Yếu Tập", Chùa Giác Minh ấn tống, 1980-1995. ký tên : Thái Không).

- KHÁI NIỆM TRIẾT LÝ KINH HOA NGHIÊM, Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành, 1999


Vào cuối tháng 12 năm 2001, Hòa Thượng cảm thấypháp thể khiếm an, mặc dù được các hàng đệ tử, các bác sĩ tại Bệnh Viện Thống Nhất tận tình chăm sóc chữa trị tại bệnh viện Thống Nhất, Sàigòn, nhưng vì tuổi cao sức yếu, Ngài đã không qua khỏi. Ngài đã an tường xả báo thân lúc 16 giờ 53 phút chiểu ngày thứ hai, 21 tháng giêng năm 2002 (nhằm ngày mùng chín tháng chạp năm Tân Tỵ, thọ 79 tuổi đời, 59 tuổi đạo.

Suốt cuộc đời, từ khi xuất gia hành đạo cho đến lúc viên tịch, Hòa Thượng Thích Đức Nhuận đã nỗ lực không ngừng trong công việc xiễn dương đạo pháp. Cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời về đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa cho Tăng ni và Phật tử noi theo. Mặc dù sắc thân của Ngài không còn nữa nhưng đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa của Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Tăng Ni Phật tử Việt Nam ở mai sau.

Thích Nguyên Tạng
Kính ghi

 




Thủ  bút của
Hòa Thượng Thích Đức Nhuận

Thich Duc Nhuan-thubut2
Phát Nguyện : Tôi phát tâm tu chẳng vì ( riêng mình) mong hưởng phúc báo
ở cõi trời, cõi người cho đến ngôi vị Thanh Văn, Duyên Giác hay quyền thừa Bồ
Tát, mà chỉ phát bồ đề tâm : cầu đạt đạo quả " tối thượng thừa" như Phật, và nguyện cho hết thảy pháp giới chúng sinh cùng lúc chứng nhập chân lý Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác .
Thích Đức Nhuận dịch


Thich Duc Nhuan-thubut-1
Lý Thường Kiệt
( 1019-1105)

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.


Dịch nghĩa :

1. Nước Việt Nam, vua Nam cai trị
Sách trời vạch định rõ biên cương
Cớ sao lũ giặc sang xâm chiếm ?
Quyết đánh không tha, buộc chúng hàng.

2. Vua Nam cai trị nước Nam ta
Ranh giới sách trời đã vạch ra
Quân giặc, cớ sao sang cướp phá ?
Bọn ngươi chuốc lấy nhục thua mà !..
.

Thích Đức Nhuận dịch

 

ht thich duc nhuan-tt nguyen tangHình ảnh lưu niệm năm 1995:

HT Thích Đức Nhuận, TT Thích Nguyên Tạng & Hoạ Sĩ Phượng Hồng

(Ghi chú: TT Thích Nguyên Tạng là đệ tử y chỉ của Cố Hòa Thượng Thích Đức Nhuận từ năm 1993 (được HT ban cho pháp hiệu là Phổ Trí), đây là thời gian sau khi HT ra tù và về tịnh dưỡng tại Chùa Giác Minh, Sài Gòn.


dao_phat_va_dong_su_viet
(Mời xem tiếp)

 



-- o0o --

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8016)
Hòa thượng Khánh Hòa thế danh Lê Khánh Hòa, Pháp danh Như Trí, pháp hiệu Khánh Hòa, sinh năm Mậu Thân (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
09/04/2013(Xem: 6574)
Hòa thượng Thích Hưng Từ, thế danh Bùi Vạn Anh, sinh ngày mùng 1 tháng 8 năm Tân Hợi ( 1911 ) tại làng Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài sinh trong một gia đình có truyền thống đạo Phật. Thân phụ là cụ Bùi Thế Vĩ, pháp danh Như chơn, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Biểu, pháp danh là Thị Bửu. Từ nhỏ Ngài được song thân giáo dục trong tinh thần từ bi và chan chứa đức hỷ xả của Phật, nên Ngài sớm mộ cửa Thiền.
09/04/2013(Xem: 6040)
Hòa thượng Huệ Quang, thế danh Nguyễn Văn Ân sing năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau theo mẹ về Trà Vinh. Năm 1902,Ngài xin xuất gia vào chùa Long Thành ở Trà Cú được Hòa thượng Thiện Trí mến thương đặt danh pháp là Thiện Hải. Ngoài giờ học Phật pháp, Ngài lại được Hòa thượng cho học thêm y học.
09/04/2013(Xem: 6259)
Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
09/04/2013(Xem: 6990)
Chùa Thập Tháp là một trong số các ngôi tổ đình nổi tiếng của đất Bình Định Nếu như ở thời kỳ khởi đầu, ngôi tổ đình ấy được chú ý nhiều vì vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều - người có công lớn trong sứ mạng truyền bá Phật giáo ở Đàng Trong thời Nam Bắc phân tranh, hậu bán thế kỷ 17 ; thì vào thời hiện đại, tổ đình Thập Tháp được cả nước biết đến vì sự có mặt của Quốc sư Phước Huệ (1869-1945).
09/04/2013(Xem: 7061)
Ngài đã nêu cao tinh thần Bi, Trí, Dũng phục vụ chúng sinh, cống hiến trọn vẹn đời mình cho sự nghiệp chung của đạo pháp và dân tộc Việt Nam. Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Năm lên 8 tuổi, được song thân cho xuất gia học đạo với Hòa thượng Phổ Hiện, tại chùa Khánh Long, Diên Khánh. Sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài y chỉ với Hòa thượng Chánh Ký, kế vị trụ trì chùa Khánh Long. Năm 1943 được y chỉ sư gửi đến thọ giáo với Hòa thượng Bích Không, trụ trì chùa Hải Đức (Nha Trang).
09/04/2013(Xem: 9141)
Hòa thượng Giới Nghiêm thế danh là Nguyễn Đình Trấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1921, tại làng Gia Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Phú, tỉnh Thừa Thiên - Huế. ngài xuất thân trong một gia đình gồm ba anh em, có tinh thần yêu nước và có truyền thống đạo đức lâu đời. Ông nội là bậc xuất gia, cha là Hòa Thượng Quang Diệu, chú cũng xuất gia, bác là Hòa thượng Phước Duyên.
09/04/2013(Xem: 5786)
Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông Bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật.
09/04/2013(Xem: 10365)
Hòa thượng pháp hiệu Thích-Thiện-Hòa, thế danh Hứa-Khắc-Lợi sanh năm 1907 tại làng Tân-Nhựt Chợ Lớn. Ngài sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, thân phụ là Hứa-hắc-Tài, thân mẫu là Nguyễn-Thị-Giáp. Gia đình cả thảy bảy anh em : ba nam, bốn nữ, Ngài là người thứ bảy. Vì người thứ tám mất sớm nên Ngài được coi là con út.
09/04/2013(Xem: 5385)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567