Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng Thích Trừng San (1922-1991)

09/04/201319:45(Xem: 8112)
Hòa thượng Thích Trừng San (1922-1991)

ht thich trung san (3)
Hòa thượng Thích Trừng San

(1922-1991)




Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.



Năm lên 8 tuổi, được song thân cho xuất gia học đạo với Hòa thượng Phổ Hiện, tại chùa Khánh Long, Diên Khánh. Sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài y chỉ với Hòa thượng Chánh Ký, kế vị trụ trì chùa Khánh Long. Năm 1943 được y chỉ sư gửi đến thọ giáo với Hòa thượng Bích Không, trụ trì chùa Hải Đức (Nha Trang).

Mùa đông, năm 1945 (23 tuổi), đất nước lâm vào cảnh điêu linh vì giặc ngoại xâm. Ngài đã phải ứng cơ độ thế, tham gia vào lực lượng Việt Minh chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Sau một thời gian hoạt động Cách mạng, Ngài đã bị địch bắt giam ở nhà ngục Kon Tum suốt bảy năm trường. Mãi đến mùa hè năm 1953 (năm 31 tuổi), từ ngục tù Kon Tum trở về, Ngài lại tiếp tục cuộc sống tu hành ở Phật Học đường Hải Đức Nha Trang (vừa được thành lập tại chùa Long Sơn, trụ sở Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa).

Năm Đinh Dậu 1957, hai Phật học đường Báo Quốc và Nha Trang được sát nhập thành Phật Học viện Trung phần, đặt cơ sở tại chùa Hải Đức, Nha Trang, Ngài là một trong những thành viên đầu tiên của Phật Học viện này. Cũng từ đó, cuộc đời tu hành của Ngài đã gắn chặt vào công tác đào tạo Tăng tài của Phật Học viện Trung phần, với bao nỗi thăng trầm, biến chuyển cho mãi đến ngày mãn duyên cõi tạm.

Cuối năm 1957 (35 tuổi), Ngài được thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn đầu tiên của Phật Học viện Trung phần do Hòa thượng Thích Giác Nhiên (chùa Thiền Tôn – Huế) làm Đàn đầu truyền giới. Trong giới đàn này Ngài là Thủ Sa di.

Năm Kỷ Hợi 1959, do nhu cầu Phật sự quá cấp thiết, Ngài được Phật Học viện đề cử vào trụ trì chùa Thiên Bình, xã Hòa Tân, Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Sau một thời gian, Ngài được Phật Học viện Trung phần gọi về tham gia công tác quản lý tại đây.

Năm Ất Tỵ 1965, Ngài cầu pháp với Hòa thượng Thích Trí Thủ, Giám viện Phật Học viện Hải Đức, Nha Trang, được ban cho pháp hiệu là Hải Tuệ và được truyền bài kệ phú pháp như sau:

 “Hải tánh nan tư nghì 
Thừa đương nhân tự tri 
Không hoa do nhãn ế 
Sanh, Phật tất giai phi”


Cũng vào năm này 1965, Giáo hội thống nhất cơ cấu tổ chức Phật Học viện toàn quốc, Ngài được đề cử giữ chức vụ Giám sự Phật Học viện Hải Đức, Nha Trang. Đồng thời, Ngài được mời giữ chức Giám viện Phật Học viện Sơ đẳng Linh Sơn, Chùa Linh Sơn Pháp Bảo , thôn Phú Nông , xã Vĩnh Ngọc, thành phố Nha Trang.

Năm Kỷ Dậu 1969, Ngài chứng minh sáng lập “ Y Vương Niệm Phật Đường ” tại bệnh viện tỉnh Khánh Hòa.

Năm Canh Tuất 1970, Ngài kiêm nhiệm trụ trì Chùa Diên Thọ, trụ sở Giáo hội Phật giáo huyện Diên Khánh, và chùa Linh Phong (chùa Núi) Vĩnh Thái – Nha Trang.

Năm Nhâm Tuất 1982, sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, Ngài được đề cử giữ chức Ủy viên Tăng sự trong Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Phú Khánh cho đến đại hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa nhiệm kỳ I năm 1991 (sau khi tách tỉnh).

Cuộc đời của Ngài, từ lúc trưởng thành cho đến khi già yếu, đã hòa nhập vào những bước thăng trầm của đạo pháp và dân tộc. Từ kháng chiến gian khổ, ngục tù khắc nghiệt, cho đến cuộc sống tu hành nghiêm tịnh chốn thiền môn công tác Phật sự liên tục dồn dập, Ngài vẫn không từ nan phục vụ, không tránh né khó khăn; ở đâu cần thì Ngài đến, Phật sự nào được giao phó Ngài đều chu toàn.


HT-Trung-San
Thành kính tưởng niệm HT Thích Trừng San




Do sự cống hiến quên mình ấy, nên sức khỏe của Ngài đã dần dần giảm sút theo tháng năm, tuổi tác. Cho đến năm 1988 Ngài yếu hẳn và trọng bệnh phát sinh. Trong thời gian tịnh dưỡng ở chùa Long Sơn, mặc dù xác thân tứ đại hoành hành não bệnh, nhưng Ngài vẫn không xao lãng công phu tu niệm.

Một hôm, như biết trước cơ duyên sắp mãn, Ngài nhờ môn đồ chở đi thăm viếng hầu hết các cảnh chùa trong huyện Diên Khánh. Đây là lần thăm viếng quê hương cuối cùng của Ngài.

Đêm 21 tháng 11 năm 1991 tức ngày Rằm tháng 10 năm Tân Mùi, trước số đông pháp hữu, pháp quyến đến thăm Ngài, đang nằm trên giường bệnh, Ngài tỉnh táo hỏi : “Hôm nay là ngày mấy ? ” quý pháp hữu trả lời bằng ngày Dương lịch, Ngài nói: “ Không, ngày Âm lịch kia ”. Sau khi nghe trả lời, Ngài im lặng mỉm cười!

Đến lúc 10 giờ sáng ngày 22 tháng 11 năm 1991 (16 tháng 10 năm Tân Mùi) hóa duyên đã mãn, Ngài đã an nhiên xả bỏ báo thân, thu thần nhập diệt trụ thế 70 năm, hưởng 35 tuổi đạo.

Ngài đã nêu cao tinh thần Bi, Trí, Dũng phục vụ chúng sinh, cống hiến trọn vẹn đời mình cho sự nghiệp chung của đạo pháp và dân tộc Việt Nam.

Thật đúng là: 

Rồng quyện xứ Trầm Hương 
Cảnh gợi tình thơ chào Hải Đức. 
Mây bay trời Diên Thọ 
Tâm nhuần ý đạo viềng Nha Thành… 


Cư Sĩ Trí Bửu 

Tưởng niệm Húy nhật lần thứ 23 Hòa thượng Thích Trừng San (16/10/Tân Mùi - 16/10/Giáp Ngọ)

TÂM NHƯ - TRÍ THỦ TOÀN TẬP
Hoà Thượng Thích Trí Thủ

VĂN ĐẮC PHÁP
CHÁNH PHÁP NHÃN TẠNG




Cái văn: Oai âm vương dĩ tiền, vô Phật danh, vô chúng sanh danh. Thử thời chánh thị đạo kỳ, thị vô nhân giác tri, cổ ngã.

Phật Thế tôn vị nhất đại sự nhân duyên cố xuất hiện ư thế, tùy cơ thuyết pháp tứ thập cửu niên, tam bách dư hội. Cát đằng ký nhi hóa duyên tương tất. Kim khẩu tuyên ngôn, thủy chung bất thuyết nhất tự. Cố ư Linh sơn hội thượng, Thế tôn niêm hoa, đại chúng mang nhiên. Ca diếp phá nhan vi tiếu. Phật ngôn: ngô hữu chánh pháp nhãn tạng phó chúc ư nhữ. Do thị tương y bát truyền dữ:


Ma ha Ca diếp Tôn giả vi đệ nhất tổ.

Đệ nhị tổ A nan đà Tôn giả,

Đệ tam tổ Thương na hòa tu Tôn giả.

Truyền chí
Đệ nhị bát tổ Bồ đề đạt ma Tôn giả,

đồng thời vi Đông độ sơ tổ.

Đệ nhị tổ Huệ Khả đại sư.

Đệ tam tổ Tăng Xán đại sư.

Đệ tứ tổ Đạo Tín đại sư.

Đệ ngũ tổ Hoằng Nhẫn đại sư.

Đệ lục tổ Huệ Năng đại sư.

Thủ truyền
Đệ nhất đại Nam Nhạc Hoài Nhượng đại sư.

Đệ nhị đại Mã Tổ Đạo Nhất đại sư.

Đệ tam đại Bách Trượng Hoài Hải đại sư.

Đệ tứ đại Hoàng Bích Đoan Tế đại sư.

Phái truyền
Đệ nhất thế Lâm Tế Nghĩa Huyền thiền sư.

Đệ nhị thế Hưng Hóa Tồn Tương thiền sư.

Đệ tam thế Nam viện Huệ Ngung thiền sư.

Truyền chí
Đệ tam thập nhất thế Mộc Trần Đạo... Hoằng Giác Quốc sư

Đệ tam thập nhị thế Tuyết... Chơn Phác.

Đệ tam thập tam thế Đại Xa Như Trường Thượng Tổ Hòa thượng.

Đệ tam thập tứ thế Tử Dung Minh Hoằng lão tổ Hòa thượng.

Đệ tam thập ngũ thế Liễu Quán Thiệt Diệu Hòa thượng.

Đệ tam thập lục thế Lưu Quang Tế An Hòa thượng.

Đệ tam thập thất thế Chiêu Nhiên Đại Văn Hòa thượng.

Đệ tam thập bát thế Phổ Tịnh Đạo Minh Hòa thượng.

Đệ tam thập cửu thế Nhất Định Tánh Thiên Hòa thượng.

Đệ tứ thập thế Kỷ Cương Hải Thiệu Hòa thượng.

Đệ tứ thập nhất thế Thanh Chân Viên Giác Đại sư.

Đệ tứ thập nhị thế Trừng Thông Viên Thành Đại sư.

Bổn Sư phó ngã kệ vân:

Vật ngã nguyên phi dị

Sum la kính tượng đồng,

Tâm đăng chiếu vô tận,

Động tịnh thể viên dung

Vi tứ thập tam thế Đạo Giám Trí Thủ đại sư. Nhân giả tác khai hóa nhất thiết thiện tri thức đắc đại nhân duyên thượng cung hạ kỉnh hòa quang tiếp vật hành lục hòa chúng từ bi bất yết hiện lượng vô phân hòa kỷ hòa tha chơn biểu tín nhĩ.

Phó pháp kệ:
Hải tánh nan tư nghị,

Thừa đương nhân tự tri,

Không hoa do nhãn ế,

Sanh Phật tất giai phi.

Đệ tứ thập tứ thế pháp tử pháp danh Trừng San, tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ đại sư.

Oai Âm Vương dĩ tiền dĩ pháp ấn tâm, Oai Âm Vương dĩ hậu dĩ tâm ấn pháp như thị trân trọng.

Thừa Thiên, Báo Quốc tự trụ trì Sa môn Thích Trí Thủ thọ ký.

Phật lịch nhị thiên ngũ bách bát niên,

Tuế thứ Ất tỵ Nhị nguyệt Sơ bát nhựt phó.


VĂN ĐẮC PHÁP
CHÁNH PHÁP NHÃN TẠNG

Biên soạn: HT Thích Trí Thủ

Việt dịch: HT Thích Huyền Tôn


Hải tánh nan tư nghị,

Thừa đương nhân tự tri,

Không hoa do nhãn ế,

Sanh Phật tất giai phi.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8555)
Nhìn tổng quát công trình nghiên tầm, khảo cứu các văn kiện, tài liệu cổ để tập thành các tác phẩm qua các bộ môn: Lịch Sử, Văn Hóa, Văn Học, Âm Nhạc, Triết học, Thiền học... của Tiến sỹ Sử gia Lê Mạnh Thát là một thành quả to lớn được kết tinh bởi một trí tuệ siêu tuyệt, một khả năng hy hữu, một thời gian liên lũy, lâu dài, qua nhiều thập niên. Đó là những yếu tố mà ít người có được, để lưu lại cho hậu thế những thành quả văn học đồ sộ và chuẩn xác trên dòng sử mệnh quê hương.
09/04/2013(Xem: 15446)
Vua Trần Nhân Tông là một vị anh hùng dân tộc, có những đóng góp to lớn, nhiều mặt cho đất nước, cho lịch sử. Vua đã trực tiếp lãnh đạo quân và dân nước ta, tập hợp được những nhà quân sự tài giỏi, huy động được tiềm lực của toàn dân, đánh thắng đội quân hung hãn, thiện chiến nhất thời bấy giờ, làm nên những chiến công oanh liệt Hàm Tử, Chương Dương, Bạch Đằng, Tây Kết lẫy lừng, đưa dân tộc ta lên đỉnh cao của thời đại. Không những thế, vua đã mở rộng biên cương của tổ quốc, đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp nam tiến hoành tráng của dân tộc, mà con cháu hôm nay và mai sau mãi mãi ghi nhớ và biết ơn.
09/04/2013(Xem: 13331)
Thiền sư Minh Châu Hương Hải là một tác gia lớn không những của văn học và triết học Phật giáo Việt Nam, mà còn của văn học và lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung. Từ nửa cuối thế kỷ 18, cuộc đời và tác phẩm của Minh Châu Hương Hải đã lôi cuốn sự chú ý của những người trí thức đương thời, trong đó nổi bật nhất là nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784).
08/04/2013(Xem: 8271)
Tôi may mắn được diện kiến Người một lần duy nhất, vào năm 1990, tại Chùa Huê Lâm, Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc ấy, tôi làm trợ lý cho thầy Thích Phước Cẩn trong việc vận động phiên dịch và ấn hành Phật Quang Đại Từ Điển. Tôi được Người ân cần khích lệ và truyền trao những kinh nghiệm quý báu về cuộc đời tu học và làm việc Phật sự của Người, trong hơn năm mươi năm qua. Lúc ấy, Người đã tròn 80 tuổi. Sức khỏe của Người còn khá tốt. Tinh thần của Người sáng suốt khác thường. Giọng nói của Người thật từ tốn, nhẹ nhàng.
08/04/2013(Xem: 6481)
Thế nhưng, cũng như chư vị Thiền Tổ khác, sử cũ Việt Nam ta không có quyển nào ghi chép rõ ràng; thậm chí một dòng bi ký cho thật chính xác khắc trên đá cứng cũng không có. Sách Đại Nam nhất thống chí (1910) chỉ ghi: “Chùa Từ Đàm: Ở trên gò ấp Bình An. Tương truyền chùa do Tử Thông Hòa thượng dựng, lại có tên chùa Ấn Tôn”. Lời ghi chép quá đơn sơ, lại có phần sai nữa. Tử Dung chứ đâu phải là Tử Thông? Những tấm bia đá dựng ở chùa Chúc Thánh - Quảng Nam, lại chỉ nói Ngài là: “Người Đại Thanh, qua An Nam, trác tích Thuận Hóa, lập chùa Ấn Tôn”.
08/04/2013(Xem: 6338)
Giờ đây, kính xin Ban Tổ Chức cho phép chùa Thiên Minh – Huế chúng con có đôi lời tác bạch trước Giác Linh Cố Hòa thượng. Ngưỡng bái bạch Giác Linh Cố Hòa Thượng! Tháng 08 tiết mùa thu xứ Huế, khí trời chưa lạnh nhưng lòng chúng con se thắt, buồn lạnh hơn mỗi khi tưởng kính đến Hòa Thượng. Hôm nào đây, tại Huế, chúng con nghe tin Hòa Thượng sắp xả báo thân, đêm dài chúng con không ngủ, lo lắng từng phút giây. Thế rồi sự hồi hộp lo âu đó đã đến... Khi điện thoại reo, chúng con nhấc máy lên thì được khẩn tin Hòa Thượng đã an nhiên thâu thần thị tịch. Từ Cố Đô Huế xa xôi, lòng chúng con thật bàng hoàng thống thiết. Ôi thật là!
08/04/2013(Xem: 14473)
Thế là gần một phần năm thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày vị ân sư của chúng tôi là Hoà thượng Tâm Như Đạo Giám Trí Thủ viên tịch. Đây là một mất mát to lớn không những đối với bản thân những người đã thọ ân Hoà thượng mà còn đối với đạo pháp và dân tộc.
01/04/2013(Xem: 9171)
Đây là tài liệu do cố thi sĩ Bùi Giáng ghi chép ngay trong cuốn sổ tay của chúng tôi vào một buổi trưa ngày mùng 10 tháng 11 năm 1993 tại chùa Pháp Vân, Gia Định, Sàigòn.
29/03/2013(Xem: 8851)
Đức Đại Lão Hòa thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn Chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên. . .
29/03/2013(Xem: 7497)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]