Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

55. Cảm niệm những tháng ngày… (Thích Nữ Giác Anh)

17/06/201408:38(Xem: 20293)
55. Cảm niệm những tháng ngày… (Thích Nữ Giác Anh)

Tháng 4 dương lịch của năm 2014 này, lịch sinh hoạt Pháp Bảo đầy ấp các khóa tu. Khóa tu Bát Quan Trai hằng tháng tại Pháp Bảo, khóa chuyên tu 7 ngày tại Tu viện Đa Bảo - vùng Blue Mountain và khóa tu chung 1 ngày, cũng tại Đa Bảo. Dù các khóa tu diễn ra liên tiếp, nhịp nhàng, tuy có nhiều hỷ lạc nhưng cũng không kém phần bận rộn. Thế nhưng đâu đó trong tâm thức vẫn lấp lánh khi ẩn khi hiện sự kiện báo Viên Giác - Đức Quốc số 201, kỷ niệm 50 năm xuất gia và hành đạo của HT Thích Như Điển.

Mặc dù trên bình diện quốc tế, giữa hai quốc gia Đức và Úc không có mối quan hệ gì đặc biệt, nhưng giữa chùa Pháp Bảo tại Úc và chùa Viên Giác tại Đức thì mối đạo tình gắn bó nhiều thắm thiết. Lẽ đương nhiên là vì 2 Hòa Thượng của 2 chùa là bào huynh bào đệ. Nhưng chỉ riêng điều đó thôi thì chắc cũng chưa đến độ thân thiết với hàng Phật tử, bổn đạo nhiều đến thế. Còn một nhân duyên khác nữa, là từ năm 2002 đến 2012, mỗi năm Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác đều qua Pháp Bảo tịnh tu dịch kinh, viết sách, thời gian từ 2 đến 3 tháng đều đặn mỗi cuối năm. Chính do nhân duyên này, nên hàng Phật tử mới có dịp được gần gũi, cũng như được học hỏi thêm Phật Pháp, chiêm nghiệm thêm về cuộc sống qua những gì Hòa Thượng để lại.

Cũng qua nhân duyên này, đạo tràng Pháp Bảo được gieo duyên với quí Thầy đệ tử của Hòa Thượng. Quí Phật tử nơi đây chắc sẽ khó quên quí Thầy TT Đồng Văn, Thầy Hạnh Giới, Thầy Hạnh Hảo, Thầy Hạnh Giả, Thầy Hạnh Tuệ, Thầy Hạnh Định, Thầy Hạnh Bổn, Thầy Tông Nghiêm, Thầy Hạnh Đức, chú cư sĩ Nguyên Trí v.v... đã cùng Hòa Thượng chia xẻ những tháng ngày ấm áp, an hòa, tràn đầy tình Sư đệ, pháp lữ nơi xứ nam bán cầu này. Giờ đây có nhân duyên nhìn lại, tận sâu trong tâm khảm, lại thêm một lần thành kính niệm ân những tháng ngày mầu nhiệm đã qua.

Người ta thường hay nói, thời gian là món quà quí giá nhất trên thế gian này. Sở dĩ thời gian quí vì mỗi giây mỗi khắc, con người đều học được bài học nào đó từ những sự việc xảy ra. Sự việc đó có thể xảy đến cho mình, nhưng cũng có thể xảy ra cho những người xung quanh. Thời gian càng lâu, việc xảy ra càng nhiều thì cơ hội được học hỏi càng cao. Nhưng tiếc thay, một khi đã học được bài học, thì thời gian qua không còn nữa, chỉ còn thời gian hiện tại là cơ hội duy nhất để thực tập bài học đó. Nếu không lại tiếp tục vấp ngã như thời gian đã qua. Người con Phật luôn có định hướng trước mắt để thời gian trôi qua trở thành những giây phút mầu nhiệm, quí báu trên con đường tu học Phật Pháp.

Hòa Thượng đã đến với Pháp Bảo từ rất lâu chứ không phải chỉ thời gian 10 năm ngắn ngủi gần đây. Mà lâu xa nhất là Hòa Thượng đã đóng vai người hướng dẫn tinh thần từ những ngày khởi đầu với những khuôn mặt tinh khôi của quí cô, quí chú Phật tử Pháp Bảo đầu tiên. Để hôm nay đã trên 30 năm, thời gian đã bồi đắp thêm biết bao nhân duyên nữa mới hình thành chùa Pháp Bảo như bây giờ. Và tiếp nối những mối duyên đó, là sự hiện diện và hướng dẫn của Hòa Thượng Bổn Sư chúng con tại Pháp Bảo trong suốt hơn 30 năm qua.

Như vậy đối với thế hệ đi sau, thời gian đó không còn giới hạn ở con số 10 hay 30 nữa, mà đã trở thành những tinh hoa, những ân tình, những cảm niệm tri ân... từ những tháng ngày chư vị tiền bối đi trước, đã để lại nền tảng với nhiều bài học quí giá cho lớp người đi sau.

Chuyện còn lại ở thế hệ tiếp nối, là mong sao những kinh nghiệm quí báu đó không trôi qua một cách lãng phí, để rồi phải tự thân tốn thời gian thêm một lần nữa mới mong học hỏi bài học kinh nghiệm cho riêng mình.

Có một câu chuyện trong Thiền môn, chuyện tuy cũ nhưng luôn là nguồn cảm hứng cho người tu Phật. Vì nhân vật trong chuyện đã thay đổi mình tỷ lệ thuận theo thời gian tu hành. Kết quả cuối cùng của nhân vật cũng chính là mục đích cuối cùng của người tu Phật.

Chuyện kể về một người tu sĩ, khi mới bước đầu vào đạo, hiểu được phần nào nền tảng giáo lý giải thoát, vị tu sĩ sau giờ công phu rời khỏi tự viện, nhìn xem cảnh trí quanh chùa, nhận định cảnh vật chung quanh thật đẹp thật yên bình, khiến ông không còn vọng tâm nhiều nữa.

Sau khi đã tu được khoảng thời gian, cũng sau giờ công phu rời khỏi tự viện, lần này cảnh vật trước mặt ông gần như nguyên vẹn không thay đổi, nhưng ông lại thấy khác! Ông thấy tất cả chỉ là duyên hội tụ, là chấp nối mọi thứ vật cảnh với nhau, nào là cây, đá, đồi đất, thú rừng… hòa hợp lại một cách khéo léo hùng vĩ, tạo thành cảnh trí mà ông cho là núi rừng sông hồ xinh đẹp yên bình ngày xưa. Bấy giờ ông nhận định cảnh vật chỉ là giả, không có gì thật, không có gì đẹp, không có gì xấu, không đáng để tâm dính mắc. Ông quay lưng bỏ đi vào tự viện, xem như không còn tha thiết nữa.

Rồi tiếp tục thời gian sau đó, việc công phu của ông vẫn đều đặn, và một hôm rời khỏi tự viện; cũng không gian ngày trước, cảnh vật thuở nào ông thường chứng kiến, nhận định theo hiểu biết của ông; thế nhưng bây giờ ông chợt thấy khác, thấy đúng cảnh vật như là cảnh vật, thấy đúng sự thật như sự thật cuộc đời. Ông vui mừng khôn tả, mừng thấy đúng lời Phật dạy, đúng chánh pháp, đúng mọi thứ do nhân duyên sinh diệt, nên không còn ghét bỏ, ưa thích, không nhận định, không phán xét, không chiều theo hư cảnh, và ngay cả tâm ý thức của chính mình. Vị tu sĩ bấy giờ không giống như ngày xưa nữa, ông an lạc, an định trong sáng dù thân thể đã già yếu đi. Ông hạnh phúc, quay vào Tự Viện, vẫn đều đặn sinh hoạt công phu như ngày nào cho đến khi duyên hết quả đến - ông chết như mọi người chết trên cuộc đời này, nhưng ông lại chết trong tịch tĩnh của Niết Bàn vi diệu.

Pháp Phật được cô đọng qua câu chuyện nhỏ, nhưng hết sức ý nghĩa, ý nghĩa giải thoát chân thật, chứ không phải giải thoát theo lý giải trên kiến thức sách vở thế gian.

Tuy nhiên vì cuộc đời đã tồn đọng theo gợn sóng ngầm của ý thức từ vô thủy cho đến bây giờ, và còn mãi nữa nếu con người không chịu dừng lại thành thật nhìn nhận cuộc đời. Cho nên con người khó thấy được chân lý Phật dạy, và càng khó hơn để nhận ra những gì rất gần gũi thường tình trước mắt, như cảnh vật con người, ngôn ngữ thế gian… chính là nhân duyên đưa đến giải thoát.

Từ khi chập chững bước vào đạo cho đến nay, ngoài Hòa Thượng Bổn Sư ra, thì HT Như Điển là người Thầy gần gũi nhất. Gần không hẳn vì Thầy là bào đệ của Thầy Bổn Sư, mà gần vì Thầy thường qua lại Úc ngụ tại chùa Pháp Bảo như đã thưa. Đặc biệt hơn nữa, chính Hòa Thượng là vị chứng minh cho lễ Xuất gia, lễ thọ giới Sa Di Ni, thọ giới Thức Xoa Ma Na và cuối cùng là Đại giới đàn thọ Tỳ Kheo Ni tại Viên Giác, Đức Quốc. Gần hết những sự kiện đáng nhớ nhất trong đời sống người tu sĩ xuất gia, đều mang dấu ấn hiện diện của Hòa Thượng.

Hôm nay chúng con kính vài lời nhân kỷ niệm một chặng đường 50 năm xuất gia và hành đạo của Thầy, chúng con chỉ biết vụng về bằng ý tưởng thường tình mà hiện nay đã và đang cố gắng học hỏi, để ý thức được những diễn tiến xảy ra trong tâm, trong thân, trong hoàn cảnh hiện thời.

Hình ảnh Thầy là hình ảnh của sự nghiêm trang tinh tấn, lại một đời thường cầu tiến học hỏi. Thầy là một trong rất ít những vị tu sĩ Phật Giáo Việt Nam hải ngoại mẫu mực trong hai thời khóa công phu hành trì. Hình ảnh đó có thể khiến người mới vào đạo khởi tâm hoan hỷ, cố gắng vượt qua những chướng ngại bản thân trên con đường thực hành đạo giải thoát.

Một điều khác nữa về Thầy khiến người lớp sau phải thường suy niệm trong đời sống thường nhật, đó là sự nghiêm thủ về giờ giấc cũng như sức làm việc miệt mài. Trong suốt khoảng thời gian Thầy tịnh tu tại Úc, hàng đệ tử thường chứng kiến Thầy cầm cây bút liên tục 3-4 giờ đồng hồ buổi sáng, thọ trai xong, rồi tiếp 3-4 giờ viết liên tục vào buổi chiều. Ngày này qua ngày khác không gián đoạn, cho đến khi hoàn tất xong tác phẩm. Hết tác phẩm này đến tác phẩm khác, Thầy cứ an vui, miệt mài như thế. Quả thật là một bài học lớn cho lớp người sau vậy.

Trong dịp kỷ niệm này, sẽ là một niềm vui lớn với Thầy. Thầy muốn chia sẻ niềm vui đó với một số người trong đạo, nhất là quý Phật tử cư sĩ có duyên xưa nay với Thầy, và hơn hết muốn các đệ tử xuất gia có dịp về lại gần vui với Thầy, mong rằng niềm vui đó sẽ được như ý. Nhưng rồi chắc cũng sẽ không tránh khỏi những điều ngoài ý muốn. Cuộc đời vốn dĩ là thế.
blank

Dù vậy thế nào thì Thầy cũng vui, vì Thầy đã đặt tâm vào đó. Và phải là tâm trạng của Thầy mới hiểu hơn ai hết. Còn nhớ những lần Thầy chia sẻ kinh nghiệm an lạc mà Thầy đã kinh qua, trong những lần tịnh tu ở Úc. Những lúc sống với chính mình, hay sống với một vài người cùng chí hướng, đó là lúc thật sự thấy được các pháp sinh diệt vô thường, vì lúc ấy người học Phật đã có duyên thấy được tâm, thấy tự ngã vi tế làm sao! Sự vi tế đột phá và lắng đọng đến lúc mà chư Thánh Tăng nhờ đó chứng Thánh quả.

Chúng con vẫn còn nhớ trong Lời giới thiệu của Thầy viết cho tác phẩm “Như cánh chuồn chuồn” của tác giả Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa năm nào, Thầy viết rằng: “...Đời này chẳng có gì cả. Mặc dù có thị hiện bằng hình tướng đó, nhưng những hình tướng này cũng chỉ là một sự đối đãi mà thôi. Hãy khoan vui khi có tiếng khen. Hãy đừng buồn khi bị lời chê. Hãy khoan giận khi việc không đáng giận. Hãy đừng hờn khi biết rằng tất cả hiện tượng đều luôn luôn đổi thay và không bao giờ đứng yên một chỗ cả...”.

Tất cả các pháp đều do nhân duyên, nhân quả của nó. Nhân thiện sanh quả thiện, nhân giải thoát sẽ chiêu cảm cảnh giải thoát. Chúng con hiểu rằng, mình đã từng thọ ân và mang ân nhiều bậc Thầy. Mỗi bậc Thầy mang mỗi hạnh nguyện khác nhau. Và chính mỗi hạnh đức riêng biệt đó đem lại nét riêng cho mỗi bậc Thầy của mình. Trong suốt chiều dài sinh tử, chúng con rất cần được học hỏi từ những bậc Thầy như thế. Đời sống đâu chỉ giới hạn vài mươi năm trong cuộc đời này, mà còn bắt nguồn nhân duyên từ nhiều kiếp trước, cho đến nhiều đời nhiều kiếp về sau. Người tu Phật nào cũng hiểu, những hạnh nguyện riêng của từng bậc Thầy sẽ giúp người đệ tử bào mòn những góc cạnh còn bén nhọn, lởm chởm... trong tâm thức thô phù, trước khi hướng đến quả vị giải thoát.

Trong quá trình mài giũa, trau giồi, làm sao tránh khỏi những cảm thọ bức xúc, đau đớn... nhưng cơn đau ấy qua rồi, như viên kim cương sẽ cứng cỏi và tỏa sáng, người tu đạo cuối cùng cũng sẽ đến được mục đích an lạc và giải thoát.

Chúng con vẫn xin được mãi mãi trân quí những lời giáo huấn, những chia xẻ tâm tình của Thầy dành cho lớp người đi sau. Hằng ngày, chúng con vẫn đảnh lễ Tam Bảo, trên bàn kinh của chúng con, vẫn là một góc dành riêng lưu dấu quyển Kinh Kim Cang mà Thầy đã trì tụng hằng đêm trong suốt thời gian Thầy tịnh tu tại Úc.

Trước khi dứt lời, chúng con xin được nhắc lại câu chuyện nhỏ ở phần trên, để nguyện chúc Thầy sẽ như vị tu sĩ thưởng lãm được cái đẹp của núi rừng, mà không phải bị lôi kéo với pháp trần hữu vi, nhưng vẫn hoan hỷ trong mọi tình huống hoàn cảnh, để trở về với tâm cảnh an định mà Thầy nhất định không nhiều thì ít đã có lần trải nghiệm, trong suốt thời gian tu niệm 50 năm qua.

Xin được kính chúc quý Thầy Cô, quý cư sĩ Phật tử tại bổn tự Viên Giác luôn sống trong pháp vị giải thoát của Đấng Điều Ngự Thế Tôn.

Kỷ niệm mùa Phật Đản DL 2014,

Kính mừng Thầy kỷ niệm

một chặng đường 50 năm xuất gia và hành đạo,

TKN Thích Nữ Giác Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/03/2011(Xem: 7147)
Tôi biết tin GS Phạm Công Thiện mất qua trang web viet-studies của GS Trần Hữu Dũng post ngày 10-3. Dòng thông tin được dẫn từ báo Người Việt ở Houston, bang Tesas cho biết theo gia đình và Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất ở Mỹ xác nhận ông mất ngày 9-3-2011, thọ 71 tuổi. Trước khi mất dường như ông đã biết trước cuộc vĩnh ly này nên nhập định rồi ra đi nhẹ nhàng. Ngoài dòng báo tin của báo Người Việt còn bài viết cho người đã mất của nhà văn Viên Linh với tư cách bạn bè.
12/03/2011(Xem: 7324)
Phạm Công thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế. Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời ? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời? Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm“, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:
25/02/2011(Xem: 6928)
Lễ huý nhật Ôn Trí Thủ năm 2005 tại Quảng Hương Già Lam
19/02/2011(Xem: 5823)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn, đệ tử của Đệ Lục Tổ Sư Thiên Ấn Tự, Hòa Thượng Tăng Cang Thích Chơn Trung, thế danh Nguyễn Thái Long, pháp danh Như Kế, pháp tự Giải Tích, pháp hiệu Huyền Tôn. Ngài sinh năm Mậu Thìn (1928.Việt lịch: 4807) tại làng Châu Nhai, Huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Thân phụ, bán thế xuất gia là Đại Sư thượng Như hạ Quý (1874-1942), Thân mẫu là Cụ bà Thái Thị Túc, pháp danh Như Chỉnh, tự Giải Lý (1891-1945).
13/02/2011(Xem: 19583)
Ca Sĩ Gia Huy, Tên thật của Gia Huy là Đặng Quốc Hung. Anh đến Montreal, Canada vào năm 1991 để cùng đoàn tụ với gia đình. Anh hát lần đầu tiên tại vũ trường Chateau Du Parc tại Montreal. Lúc đó, anh hát với ban nhạc Phạm Mạnh Cường để trình bày những tác phẩm như "Máu Nhuộm Bãi Thượng Hải", "Mười Năm Tình Cũ" và "Lambada". Ngay sau lần trình diễn đầu tiên, Gia Huy trở thành một ấn tượng của dân chúng tại Montreal. Anh bắt đầu hát cho một số vũ trường tại địa phương như Bistro Dore, Miss Sai Gòn, và Đêm Sai Gòn. Tuy nhiên, mục đích của Gia Huy là nổi danh ngoài Canada và khuếch trương số khán thính giả đi khắp thế giới.
30/01/2011(Xem: 6079)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Đệ Nhị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
14/01/2011(Xem: 6199)
Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần. Thầy xuất gia năm 16 tuổi (1947) và thọ giới tỳ kheo năm 1952. Bổn sư của Thầy là Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nguyên, Viện chủ Tổ Đình Tây Thiên (Huế).
07/01/2011(Xem: 7052)
Ông vua đầu tiên của nhà Trần và cũng là một thiền sư cư sỹ, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) (1218-1277) đã để lại một sự nghiệp chính trị, một dòng văn học bất hủ, đến bây giờ vẫn mãi là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường trong đêm dài tăm tối, cho những ai tìm phương vượt thoát, lộ trình cho những ai muốn đưa dân tộc tìm tới đỉnh cao của nhân bản và an lạc.
05/01/2011(Xem: 5868)
Về việc Hòa Thượng Đôn Hậu lên núi, ra Bắc trong vụ Tết Mậu Thân được thầy Trí Tựu, Trú Trì chùa Linh Mụ thuật lại như sau: (lúc 12:00 giờ trưa, ngày 12-3-2009 tại chùa Linh Mụ) Vào khoảng quá nửa đêm tối Mồng một Tết Mậu Thân, có một phái đoàn gồm quân nhân và người mặc thường phục đến thăm Ôn. Ôn đang bị bệnh, bệnh suyễn và xuất huyết dạ dày. Thầy ngồi đàng xa. Thầy Trí Lưu, thân phụ của thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, lúc đó là Tri Sự chùa Linh Mụ, ngồi gần Ôn. Họ mời Ôn về Huế họp. Ôn từ chối nói đau không đi được. Họ nói có người đưa Ôn đi. Sau đó người ta gánh Ôn đi trên một chiếc võng, từ chùa Linh Mụ, không về Huế mà rẽ về Chợ Thông thuộc làng An Ninh Hạ, đến La Chữ. Ban ngày núp, nghỉ, ban đêm đi. Sau một tháng đến Seopon giáp giới Lào. Máy bay trực thăng bay trên đầu mà không bắn. Trên đường đi, thiếu lương thực, bị hạm đội Mỹ pháo kích. Nhiều người bị chết vì đói và sốt rét. (Được kể lại sau 1975). Rồi sau đó từ Huế ra Hà Nội mất hết 4 tháng, đi theo đường Mòn Hồ Chí Minh đến
30/12/2010(Xem: 5801)
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, Nam Hải Điếu Đồ, sinh trưởng trong gia đình phong kiến quý tộc có nhiều danh vọng, quê gốc ở làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Cha và anh của ông giữ những chức vụ quan trọng trong phủ chúa Trịnh. Thời trẻ ông tập ấm một chức quan võ nhỏ của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Năm 1787, Tây Sơn ra Bắc diệt Trịnh, ông bắt đầu thời kỳ “Thập tải phong trần” (Mười năm gió bụi). Sau ông phục vụ nhà Nguyễn, làm đến Hữu Tham tri Bộ Lễ, từng được cử làm chánh sứ đi sứ Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]