Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Hội ngộ (Thích Nữ Giải Thiện)

17/06/201403:46(Xem: 18819)
12. Hội ngộ (Thích Nữ Giải Thiện)

 Ngày ấy, Thầy tu ở tổ đình Viên Giác phố cổ Hội An, học trường Bồ Đề. Từ xa nhìn giữa những nam sinh áo trắng quần xanh thấy có một tăng sĩ trẻ đội chiếc nón lá rộng vành, đi đôi guốc mộc, mặc áo nhật bình đà bạc màu, đang từng bước điểm trang giữa học đường, không ai là không nhận ra Thầy "Thích Như Điển", vì đó là phong đặc biệt của Thầy thuở ấy.

 Thấm thoát mây trôi mấy độ, nắng vàng đổi sắc bao lần. Xuân, hạ, thu, đông thay nhau đến đi giữa lòng phố cổ. Có ai thấy, có ai biết trong thay đổi có cái gì không đổi thay, trong vô thường cái chơn thường hiển hiện. Ngày tôi gặp lại Thầy hơn 40 năm xa cách, bây giờ thầy là "Hòa Thượng Thích thượng Như hạ Điển". Thầy và tôi tất cả đều thay đổi rất nhiều mỗi người sắp sửa thêm một chân nữa, nhưng vẫn còn biết nhau ở cái "bất biến này".

 Tôi chợt nghe được tâm sự của Thầy khi Thầy ngâm bài thơ "Khi nào tôi về thăm xứ Quảng" của Trần Trung Đạo. Chắc Thầy nhớ quê hương dữ lắm, đã hơn 40 năm rồi chưa về thăm cố quận, làm sao mà không nhớ cho được. Vì:

"Quê hương là chùm khế ngọt, cho ta trèo hái mỗi ngaỳ"

"Quê hương là đêm trăng tỏ, hoa cau rụng trắng ngoài thềm..."

 Tôi liền cảm tác mấy câu nhắn tin qua Thầy:

Nếu mai này
Ai có về thăm quê cũ
Xin đừng ngập ngừng
Trước những ngã đường
Đã thay tên đổi hướng
Vì dù đường có lạ hướng có đổi thay
Thì bước chân xưa
Vẫn không khác bước chân nay.

 Thời gian sau tôi lại được gặp thầy nơi đất Phật, lại được nghe những nỗi niềm nhớ quê của Thầy đến da diết, Thầy hỏi thăm tôi đủ mọi chuyện ở quê nhà, tôi thưa với Thầy là Hội An năm nao và bây chừ đã thay đổi nhiều lắm, chỉ có vần trăng Hội An là vẫn như thế, như chơn tâm bất sanh bất diệt hằng hữu trong tứ đại sanh diệt của mỗi chúng ta.

 Và tôi đã ngâm bài thơ này kính tặng lên Thầy:

 

Hội An năm nao nắng vàng reo ngày hạ
Ngôi cổ tự dịu mát bóng cây đa.
Hội An bây chừ hững hờ con nước lạ
Chờ người về sưởi ấm lối đi xưa.
Hội An năm nao đôi guốc mộc
Người nhẹ bước tan trường lúc chiều buông.
Hội An bây chừ Tây, Tàu đến tấp nập
Rộn ràng vội vã ngắm rêu xanh.
Hội An năm nao trăng vàng sáng lung linh
Hội An bây chừ trăng vẫn lung linh sáng.
Hội An năm nao chừ Hội An nhé.
Hội An bây chừ, chừ Hội An hỡi
Ta mãi vọng về Hội An ơi…!
Ta mãi vọng về Hội An ơi…! 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8153)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 12183)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 7680)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 7132)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 8977)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 7609)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 7252)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 6729)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 6655)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
09/04/2013(Xem: 30388)
Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh em, 4 trai, 9 gái.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]