Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. Tia sáng từ Bảo Tháp Phù Thi

15/04/201416:53(Xem: 9033)
20. Tia sáng từ Bảo Tháp Phù Thi
Tia sáng
từ bảo tháp Phù Thi
Khải Thiên Thích Tâm Thiện

Ngài ra đi để lại một công trình tâm linh vĩ đại. Ở nơi đây, lần cuối cùng này, cũng như thế, Pháp âm của Ngài sẽ vĩnh hằng trong chúng con. Tia sáng Phù Thi sẽ tiếp tục rạng ngời cho hậu thế.

Cùng hàng Phật tử cúi đầu kính tiếc…

Những ngày qua, hàng Phật tử Việt Nam xót xa tiễn đưa một bậc cao tăng của thời hiện đại, một dịch giả vĩ đại, có một không hai, của dòng kinh tạng Đại thừa, đó là Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh. Sự tán dương và ca ngợi công đức của Ngài có lẽ chẳng bút mực nào có thể mô tả cho hết được.
Chỉ riêng bộ kinh Pháp hoa mà Ngài phiên dịch và lần đầu tiên được ấn hành vào năm 1947 đã là một dấu son bất diệt. Bản kinh này đã được thọ trì, đọc tụng, phiên tả, giảng thuyết khắp cả ba miền đất nước. Được truyền bá hơn nửa thế kỷ qua, bản kinh vốn được xem là Pháp vương này đã thấm sâu vào lòng của hàng Phật tử mộ đạo.
Những ai đã một lần thọ trì kinh Pháp hoa, kết duyên với Nhất thừa Phật đạo sẽ mãi mãi tri ân Ngài; tri ân không phải vì ngôn ngữ bóng bẩy, hoa lệ của bản dịch mà vì triết lý viên giáo tối thượng được phô diễn qua ngôn ngữ bình dị đến khôn lường. Có thể nào tưởng tượng rằng một vị Bồ-tát đến thăm Đức Phật và vấn an Ngài bằng những lời lẽ của con người, đại thể như vầy: “Thế Tôn có được an lạc, ít bệnh, ít não, chúng sinh có dễ độ chăng?”.

Đọc những lời như thế khiến ta cứ ngỡ rằng Đức Phật vẫn đang hiện hữu đâu đây chứ không phải là Đức Phật đã diệt độ của những mấy ngàn năm trước. Thật vậy, một kho tàng triết lý nhân bản và nhân văn của nền triết học Đại thừa đã được gói trọn trong những mẩu chuyện và ngôn từ như thế. Cho đến các giáo thuyết quan trọng như “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính” hay “nam nữ bình đẳng trên con đường tu tập và chứng ngộ” v.v... đều được Ngài phiên dịch bằng một ngôn ngữ mộc mạc, dễ hiểu, và dễ lĩnh hội… Nay thì, lời kinh còn đó mà Người đã ra đi!

… khoảnh khắc Phù Thi… giật mình
Theo dõi diễn biến tang lễ của Ngài với người viết quả thật cũng là một cuộc thanh luyện nội tâm. Lễ nhập bảo tháp của Ngài thực thụ là một chấn động tâm linh sâu sắc. Sự chấn động không phải vì số đông tham dự mà vì chính cái tên của ngôi bảo tháp: Phù Thi. Hẳn Ngài đã mong muốn gởi lại cho hậu thế cái gì khi đặt tên cho mộ địa của chính mình như thế.

Thông thường, khi đặt tên cho một bảo tháp, các bậc tôn trưởng đều dựa vào những nhân duyên và sở nguyện thầm kín, thiêng liêng. Và thường, mỗi bảo tháp có một cái tên bao hàm một nội dung lý tưởng rất đẹp, chẳng hạn như là tháp Báo Thiên, Báo Ân, Phước Duyên, Pháp Lạc v.v... Rất hiếm khi một bảo tháp được đặt tên như trong trường hợp này.

Tên bảo tháp là Phù Thi. Trong chữ Hán, Phù thi (浮 屍) có nghĩa là cái thây nổi, hay cái xác chết nổi bồng bềnh. Hình ảnh của ngôn ngữ quả thật là ấn tượng một cách lạ thường. Trước mặt bảo tháp Ngài Hòa thượng còn cho dựng một tấm bia, có ghi hai câu chữ Hán: 有 來 問 我 爲 何 似 / 報 道 浮 屍 苦 海 中 (Hữu lai vấn ngã vi hà tự, báo đạo phù thi khổ hải trung). Và bên dưới có ghi:

Thơ rằng:
“Biển khổ mênh mông sóng cuộn trào
Thây trôi theo sóng hướng bờ vào
Có ai níu lấy thây nổi ấy
Sớm muộn cùng thây tắp bờ cao”.

Bài thơ đã nói lên tâm niệm trao gởi của Ngài một cách rõ ràng. Bài thơ là bức thông điệp chân lý -một thực tại như thực, giản đơn, chân thật, và luôn luôn là như thế. Ở đây, Ngài đã bôi xóa cái mật ngữ Phù Thi khó hiểu bằng lời giáo dưỡng chân tình, mộc mạc: “Biển khổ mênh mông sóng cuộn trào...”. Ý nghĩa của bài thơ là một sự cảnh tỉnh, là một Pháp ngữ chỉ thẳng, chỉ ngay vào thế giới thực tại… Đấy là gì? Một cái thây bồng bềnh giữa biển khổ! Vâng, mai sau nếu ai hỏi về bậc chân nhân thì đừng quên bảo rằng: Hãy nhìn vào thực tại…thực tại, một cái thây bồng bềnh giữa biển khổ (phù thi khổ hải trung)!

Và điều quan trọng hơn, đó là cần phải thấy cái gì không những chỉ ở bảo tháp Phù Thi mà ở cả thế giới phù thi mộng huyễn? Quả thực là vô cùng tinh tế! Ngay cả cách thức an trí kim quan của Ngài ở bảo tháp cũng phô trần cái thực tại bồng bềnh của luân hồi sinh tử!

… Hai chân lý cho hành giả
Như lời suy niệm của Ngài Hòa thượng Pháp sư Trí Quảng nhận định, Đức Trưởng lão Hòa thượng là một hành giả Tịnh độ mẫu mực, Ngài đã sống một cuộc đời tri và hành hợp nhất. Sự ra đi của Ngài là một sự ra đi hiếm thấy của một hành giả đích thực. Và nhục thân của Ngài, giờ đây, cũng đã chuyển thành Pháp âm sinh động với chân lý thâm huyền cùng hai chữ Phù thi. Ảnh tượng này hàm ẩn hai chân lý được cụ thể trong hai câu kết:


“Có ai níu lấy thây nổi ấy
Sớm muộn cùng thây tắp bờ cao”.


Sự thể ở đây được mô tả bằng thực tại. Đại dương không dung túng xác chết bồng bềnh. Xác chết bồng bềnh sớm muộn gì cũng phải trôi giạt vào bờ theo từng chuỗi sóng hợp tan. Với pháp ngữ này, Ngài đã chỉ ra rằng dẫu thân người trôi nổi trong thăng trầm của đại dương sinh tử, nhưng nếu biết nương vào đó mà tu tập thì có thể tiến đến bờ cao - Niết-bàn, Tịnh lạc. Hai chân lý công ước và tuyệt đối luôn đồng hành với nhau. Nếu muốn đến Niết-bàn, phải nương vào chân lý công ước, lìa chân lý công ước, không thể đến Niết-bàn. Đấy chính là ảnh dụ nương vào chiếc thân phù thi giả tạm trong biển khổ vô thường để tiến đến cõi chân thường, bất sinh bất diệt. Không vào cửa phương tiện thì sẽ chẳng bao giờ đạt đến chân trời cứu kính.

Bạt
Ngài ra đi để lại một công trình tâm linh vĩ đại. Ở nơi đây, lần cuối cùng này, cũng như thế, Pháp âm của Ngài sẽ vĩnh hằng trong chúng con. Tia sáng Phù Thi sẽ tiếp tục rạng ngời cho hậu thế. Cúi đầu kính lễ Giác linh Đức Hòa thượng Đường đầu đắc giới Đại giới đàn Thiện Hòa, tổ chức tại Ấn Quang, 1991.


Tu viện Cát Trắng, Hoa Kỳ, 2014
Khải Thiên Thích Tâm Thiện
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/07/2010(Xem: 9499)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4476)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4328)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6345)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5162)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7644)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6051)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12773)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
05/12/2008(Xem: 8416)
Hình ảnh Mừng Sinh Nhật Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Ngày 5-12-2008 tại Cao Hùng , Đài Loan tại Nhà Hàng 200 Món Đồ Chay Do Đạo Hữu Tony và quý Phật tử trong phái đoàn Hành Hương Chiêm Bái Phật Tích Ấn Độ tổ chức
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567