Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tổ Sư Minh Đăng Quang, chiếc bóng bên trời trăng khuyết

26/02/201410:01(Xem: 13965)
Tổ Sư Minh Đăng Quang, chiếc bóng bên trời trăng khuyết

To su minh dang quang

Bài tham luận Hội Thảo “Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập”

TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG

CHIẾC BÓNG BÊN TRỜI TRĂNG KHUYẾT



Tổ sư Minh Đăng Quang sinh ra (năm Quý Hợi 1923) và lớn lên trong giai đoạn đất nước nói chung và Nam Kỳ Lục Tỉnh nói riêng, công cuộc chiếm cứ, thực hiện kế sách bảo hộ lâu dài của thực dân Pháp đã đi vào thế ổn định, và đang tự tin cho bước phát triển tiếp theo tưởng chừng mạnh mẽ ấy. Bởi lẽ trước đó hai năm ( năm Canh Thân 1920) quan toàn quyền Maurice Long đã thành lập Hội Đồng Thuộc Địa Nam Kỳ, còn được gọi là Hội Đồng Quản Hạt (Conseil Colonial) mà cũng là nơi tranh nhau quyền lợi giữa các nhóm làm ăn người Hoa, người Pháp cũng như các ông tư sản của chính vùng đất Nam Kỳ. Thật ra, trên bình diện chung, thời điểm này được xem là giai đoạn chuẩn bị tuột dốc, để không lâu sau đó, cao trào tự chủ, độc lập dân tộc khắp nơi trên thế giới đã thổi làn gió tích cực đến nhiều giới sĩ phu, nông dân yêu nước Việt nam mạnh mẽ và rất quyết liệt, làm lung lay chế độ thực dân mà Pháp đã dày công củng cố nhiều mặt và nuôi giấc mộng chiếm ngự lâu dài.

Đọc lại những trang sử ố vàng theo thời gian trong giai đoạn này, chúng ta không khó khăn lắm bắt gặp hình ảnh Phật giáo nằm khép sâu trong mớ tro bụi ấy rất cũ kỹ, rất cổ xưa và nói chính xác hơn không có sự sống. Phải đợi gần mười năm sau đó nữa, chư Tôn Đức tài ba mới dấy động thành công phong trào chấn hưng Phật giáo khắp ba kỳ rực rỡ. Điều rất dễ nhận ra lý do tại sao là: khi đất nước nguy vong, đạo pháp cũng không an ổn, có những Tăng Ni Phật tử, phải “cởi áo cà sa khoát chiến bào” lên đường cùng đoàn quân chống ngoại xâm. Và tất nhiên chúng ta không thể quên còn có lý do to lớn nhất: thực dân Pháp đã thành công trong việc đẩy lùi Phật giáo vào chốn thâm sâu cô tịch, biến giới Tăng sĩ thành những ông Thầy chùa làng ít học và Phật tử có chăng chỉ là thành phần có việc ma chay phải tống táng, mới đến chùa cúng bái. Những dòng chữ lịch sử u buồn này được nhà viết sử Vân Thanh mô tả như sau “Phật giáo thời bấy giờ cùng chung số phận ấy, mất chủ quyền dân tộc, giáo quyền đạo Phật bị chà đạp trắng trợn hơn bao giờ hết (các Sư phải nộp thuế thân, phải đi lính cho thực dân Pháp, chẳng được tự do truyền đạo như bên Thiên Chúa v.v...)Tình trạng khốn đốn của Phật giáo trong buổi này chẳng khác nào đóng cửa để chờ chết vì chẳng còn hệ thống(đoàn thể) tổ chức như trước kia, nguyên do thực dân Pháp cố tình cắt đứt sự tổ hợp của Phật giáo buổi này, chúng sợ dân ta trá hình là Phật giáo để rồi chống đối chúng, nên mọi hình thức của Phật giáo bị làm tê liệt cả.Trong tăng giới thời này chẳng biết làm gì hơn trước sự dòm ngó theo dõi của thực dân, nên sự sống hết sức rời rạc vô tổ chức”(trích trang 189-190, LKPGS, giấy phép số 929/72/PTUVK SALP/TP 27.6.1974 ). Đó cũng được coi là hình ảnh tiêu biểu nhất thời mất nước của Phật giáo trong mọi thời kỳ.


Đời gặp thuở can qua chinh chiến
Sống những ngày nguy biến kinh tâm
Kéo dài thê thảm nhiều năm
Đầy trời sát khí cõi âm hiện hình!
Kẻ thác đi hồn linh tức tưởi
Người sống còn rũ rượi sầu thương
Kể đâu hết khúc đoạn trường
Bàn tay ác liệt vô thường gây nên?

(Trích Kinh Nguyện Hòa Bình VII)


Chiến tranh, loạn lạc, đói kém là một trong những động tố xô đẩy tinh thần con người ta ngả nghiêng lắm bận, nhưng cũng như tâm tư ông Tộc Đầu Sư (đạo Cao Đài) Nguyễn Văn Ngợi (1900-1988) ở miệt Tam Bình,Vĩnh Long, cùng quê hương chào đời của Tổ Sư Minh Đăng Quang; Tăng Ni Phật tử thời bấy giờ cũng cùng chung tâm nguyện thiết tha:

Chẳng bỏ lời thế nơi Phật cảnh
Không quên tiếng nguyện chốn non xanh.

Có thể nói, ở Lục Tỉnh Nam Kỳ thời bấy giờ, ngoại trừ các tín ngưỡng mang tính chất thuần túy tôn giáo, còn lại không ít các tổ chức chính trị của nhiều xu hướng, thành phần khác nhau, đua nhau ra đời nhưng trước tiên đều trang bị vỏ bọc hình thái một tín ngưỡng; đặc biệt càng huyền bí càng dễ thu phục quần chúng, vì rất phù hợp với đa số người bình dân và bộ phận sống trong sự u uất, bế tắc trước nạn đao binh do thực dân Pháp gây ra; từ đó, dần dà biến thành lực lượng hậu thuẩn cho quan điểm đấu tranh của mình.

Với Phật giáo, tinh thần nhập thế rất rõ ràng, nếu không thể chuyên tâm tu hành thì dũng cảm lên đường gia nhập hàng ngũ chống giặc, không hề phạm phải một giới luật chi. Vì thế trong chiều dài lịch sử hòa mình cùng dân tộc, Phật giáo vẫn đứng trụ vững ở một nơi cao nhất trong lòng dân tộc, chưa hề có một tỳ vết hoen ố trong tinh thần chống ngoại xâm.

Những Bửu Sơn Kỳ Hương ( Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên (1807- 1856); Tứ Ân Hiếu Nghĩa ( Bổn sư Ngô Lợi (?-1880). Trong giới Cư sĩ thì có các tổ chức như Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội ( Cư sĩ Nguyễn Văn Bồng (1886-1958); Ngũ Minh Chi Đạo (Đạo Minh Sư do các Cư sĩ Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Thiện, Minh Tấn) v.v… Đó là những chứng minh tinh thần Phật giáo biết phân thân đi vào từng ngỏ vắng trần đời để trụ vững và tồn tại.

Còn có Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo chính đáng dựa vào nền tảng Phật Đà nhưng có một lối tư duy độc lập, rẽ hướng song hành cùng các tông phái, tổ chức Phật giáo thời bấy giờ trên con đường phát triển và hóa đạo. Và Phật giáo Hòa Hảo từ nền tảng khế lý, khế cơ của mình đã tỏ ra rất phù hợp với đa số cư dân Nam Kỳ Lục Tỉnh, gặt hái được những thành tựu đáng kể.


Khi đức Huỳnh Phú Sổ khai sáng nền đạo Phật giáo Hòa Hảo, (năm Kỷ Mão 1939), thì Tổ Sư Minh Đăng Quang trong độ tuổi trăng tròn và đang nuôi chí xuất trần nơi xứ Cao Miên (Campuchia).

Thiếu niên ngày nọ lìa nhà
Vượt biên giới Việt-Miên xa dặm ngàn.
“Lên non tìm động hoa vàng…”
Tầm sư học đạo chốn Nam Vang thành…
(Trích Thi Hóa-nhà thơ Trụ Vũ)


Như vậy, những Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật Giáo Hòa Hảo phần nào cũng có ý nghĩa tác động ban đầu trong ý chí tầm đạo của Tổ Sư Minh Đăng Quang, để sau này, khi hình thành nên mối đạo, trở nên một tông phái Phật giáo bản xứ, Phật giáo Khất Sĩ đã vận dụng thành công tư tưởng Phật Đà trong các nguồn Kinh Luật Luận của cả Bắc và Nam Tông, tạo nên sắc thái riêng biệt mà không xa rời ngôi nhà chung Phật học với phương châm: NỐI TRUYỀN THÍCH CA CHÁNH PHÁP.

Từ Bi là gốc Như Lai
Cảm thương thân phận những ai đọa đày
(Trích Thi Hóa đã dẫn)

Nếu như chúng ta trân trọng, thán phục khai sáng của đức Huỳnh Phú Sổ, đã chắt lọc khôn khéo tư tưởng Phật học, hình thành nên lối hành đạo và hóa đạo độc lập, mang một luồng gió mới đến với mọi người bao nhiêu thì càng thêm kính phục bấy nhiêu quá trình tu học và thành lập hệ phái Khất Sĩ của Tổ Sư Minh Đăng Quang. Sự hình thành và tồn tại, luôn phát triển của hệ phái Phật giáo đặc biệt này, đã nói lên được giá trị đích thực cũng như kết quả đúng theo tâm nguyện khi xưa kia Tổ Sư Minh Đăng Quang đã mở đường khai lối.

Phật giáo Khất Sĩ được khai sinh trong bối cảnh đất nước đang hồi nghiêng ngửa như thế, cho nên Tổ Sư Minh Đăng Quang luôn thao thức về sự bình đẳng trong tha nhơn, sự bình an trong cuộc sống của dân tộc mình, từ đó mới có thể nghỉ đến bước phát triển tiếp theo. Vì vậy, trong bộ Chơn Lý, phần gần cuối chúng ta sẽ bắt gặp hệ tư tưởng Hòa Bình bằng sáu phần khúc giải rất thâm sâu. Như đọạn đầu trích dẫn bài kinh Nguyện Hòa Bình VII trên. Ở đó nói lên khái niệm Hòa Bình trong phạm trù nghịch chiến tranh, tác nhân của phần lớn khổ đau mang tính chất cộng nghiệp của một dân tộc, một địa phương hay một nhóm xã hội. Những phần kế tiếp là Hòa Bình trong từng công hạnh tu tập mỗi thành tố Khất Sĩ, trong giao tiếp với tha nhân. Trong đó đặc biệt còn nêu cao vai trò gắn kết giữa gia đình và xã hội chung quanh.

Cõi bình đẳng về sắc thân không ai hơn kém, chỉ dùng đức hạnh làm cây thước, để đo trình độ thấp cao. Trong đạo cả thảy sự sống như nhau, một tiếng Khất Sĩ như nhau. Cõi không hình phạt, không quyền, không trị, chỉ có một sự dạy, mà tất cả được yên.

Giữa cõi đời chết khổ, Khất Sĩ là chất nhựa sống, gắn liền các khối chia rẽ riêng tư. Khất sĩ là con đàng chơn lý võ trụ, đúng theo trung đạo ánh sáng, không thiên về một bên lề mé, Khất sĩ tượng trưng giáo lý đại đồng.

Cái sống là đang sống chung,
Cái chết là đang học chung
Cái linh là đang tu chung.
(Trích Hòa Bình-Đoàn Du Tăng-Bình Đẳng Vô Trị)

Dựa vào tiêu chí chư Tổ Sư từ ngàn xưa, trong tinh thần:

Nhất bán thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Dục cùng sanh tử lộ
Khất hóa độ xuân thu.

Phật giáo Khất Sĩ cũng tuân thủ bốn tiêu chí chặt chẽ, rất đáng kính trọng, nhưng cũng rất cởi mở:

- Người tu khất thực chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp giới bổn thì được ăn ở chùa.
- Người tu khất thực chỉ lượm những vải bỏ mà khâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận.
- Nguời tu khất thực chỉ nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ bằng lá một cửa thì được ở.
- Người tu khất thực chỉ dùng phân uế của bò mà làm thuốc trong khi đau, nhưng có cúng thuốc đường dầu thì được dùng.

Với tư tưởng, chủ trương đứng đắn, Phật giáo Khất Sĩ đã nhanh chóng được nhiều tầng lớp tiếp nhận, chung tay vun bồi nền đạo, Sau ba năm khai sáng, Tổ Sư Minh Đăng Quang mới tiếp nhận người đệ tử đầu tiên là sư Từ Huệ, và một năm sau đó( năm Mậu Tý-1948), Phật giáo Khất Sĩ đã có mặt và phát triển tại Sài gòn.

Sài gòn hoa lệ từ xưa
Trăng phơi cánh mộng, gió đưa điệu đàng
Một ngày kia, dưới nắng vàng
Bỗng trang nghiêm hiện một đoàn du Tăng
Dân thành thị những băn khoăn:
Họ là ai? Xin thưa rằng: Họ đây
Là môn đệ của Đức Thầy
Minh Đăng Quang- chiếu tự rày mười phương…

(Trích Thi Hóa của nhà thơ Trụ Vũ)

Từ đây Phật Giáo Khất Sĩ đã hòa mình vào vận mệnh chung của Đạo Pháp, làm sáng đẹp thêm ngôi nhà chung Phật Giáo Việt Nam.

THAY LỜI KẾT

Cho đến tận hôm nay. Tròn sáu mươi năm. Kể từ buổi chiều ngày 30 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1954), tại Tịnh xá Ngọc Quang (Sa Đéc), dưới tán cây bã đậu, Tổ Sư Minh Đăng Quang nói lời từ tạ chúng đệ tử để vào “núi lửa” tĩnh tu; ngày Vị Tôn Sư khả kính của Phật giáo Khất Sĩ nói riêng và vị danh Tăng của Phật giáo Việt nam nói chung, đã hoàn toàn vắng bóng tôn nhan, để lại con lộ hóa đạo thênh thang cùng với sự phát triển hanh thông theo ước nguyện của người mà chúng đệ tử luôn hãnh diện và luôn đau đáu dõi trông hướng trời vô định, vẫn đinh ninh một ngày nào đó vị Tổ Sư sẽ về lại với mình. Để vầng trăng thanh được tròn vạnh giữa đêm rằm dân tộc, ấm cúng bao mối đạo tình mà ngày xưa lao nhọc xả thân tìm cầu mới có được; và cũng để những dòng sử liệu sau cùng về tiểu sử đời Ngài lẫn Đạo Phật Khất Sĩ không còn phải dùng đến cụm từ: NGÀY ĐỨC TÔN SƯ VẮNG BÓNG. Ngày đó, cùng với cụm từ này, tuy được cho là “Kỷ Niệm” nhưng thật sự đó chính là ngày giỗ kỵ tạm ước mà chúng đệ tử phải đành lòng ngậm ngùi tưởng nhớ.


Năm Giáp Ngọ
Đầu tháng hai,
Vĩnh Long hoa nở đón người vân du
Khi qua thuyền tới Cần Thơ
Bỗng đâu nhận được “lệnh” từ cấp trên
Một xe vào cõi “U huyền”,
Ai hay địa ngục giữa miền dương gian
Tuồng đời hợp hợp tan tan
Ngắm tranh vân cẩu đôi hàng lệ sa
Đêm xuân tủi bóng trăng tà
Đêm thu tủi ngọn đèn hoa vơi dầu.
Bây giờ Phượng ở nơi đâu?
Bóng chim tăm cá biển sâu sông dài
Đã đành thường trụ Như Lai
Đã đành pháp tánh ở ngoài sắc không
Đã đành gương chiếu hoa lồng
Đã đành đành vậy, mà lòng…vẫn đau….

(Trích Thi Hóa của nhà thơ trụ Vũ)



DƯƠNG KINH THÀNH
Trung Tâm Nghiên cứu Phật Giáo Việt nam
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam




Hoi_Thao_to_su_Minh_Dang_Quang


Hoi_Thao_to_su_Minh_Dang_Quang_DKTCư Sĩ Dương Kinh Thành



----------------------
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/01/2018(Xem: 15552)
Khấp Báo Huynh Trưởng Cấp Dũng Tâm Nghĩa vừa qua đời tại Cali, Hoa Kỳ
10/01/2018(Xem: 11771)
Viên dung hạnh nguyện Bồ Đề, Thong dong giữa cõi, lối về phương duyên. Thác duyên giữa chốn lam thiền, Kim Liên hầu Phật, tịch chiên kinh huyền.
06/01/2018(Xem: 9425)
Chúng tôi có duyên được gặp ông Lý Đại Nguyên từ những năm cuối thập niên 1950, khi đến tham dự những buổi nói chuyện về những vấn đề văn hóa, chính trị và văn nghệ vào những ngày chủ nhật tại Đàm Trường Viễn Kiến (nhà ông Nguyễn Đức Quỳnh trong hẻm cạnh chùa Giác Minh của thượng tọa Thích Tâm Châu, đường Phan Thanh Giản). Khi nhập vào Đàm Trường này, chúng tôi còn là học sinh đệ tứ, đệ tam trường Chu Văn An, nhưng được nghe nhiều nhà văn, nhà báo thuyết trình đủ thứ đề tài , trong đó tôi còn nhớ là thường gặp luật sư Nghiêm Xuân Hồng, nhà văn Mặc Đỗ, nhà báo Hồ Nam, nhạc sĩ Phạm Duy, mấy nhà văn nhóm Sáng Tạo, và mấy người trẻ lớp tuổi tôi như Phan Lạc Giang Đông, Phạm Thiên Thư, Lê Triều Quang... Nhà văn hóa Nguyễn Đức Quỳnh, chủ nhà và người chủ trương Đàm Trường Viễn Kiến, với bộ bà ba nâu, trán cao, dáng thanh thoát thường góp nhiều ý kiến trong những buổi nói chuyện, và người thứ nhì là Lý Đại Nguyên, dáng thư sinh, mặc bộ bà ba trắng thường tổng kết những đề tài thảo luận. Tro
29/12/2017(Xem: 23409)
Giáo Sư Trần Quang Thuận, Pháp danh: Tâm Đức Tự: Trí Không Sinh ngày 02 tháng 7 năm 1930 tại Huế. Đệ tử của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu. Du học và tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Anh. Cựu Bộ Trưởng Bộ Xã Hội, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cựu Nghị sĩ Thượng Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa. Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Hội Ái Hữu Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Thư Ký Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu Kế Hoạch GHPGVNTNHN-HK. Giám đốc Trung Tâm Học Liệu Phật Giáo, California, Hoa Kỳ. Đã cộng tác với nhiều báo chí Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại.
19/12/2017(Xem: 7040)
Trong diễn văn của Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại buổi khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội đã khẳng định: “Việt Nam là đất nước đa tôn giáo mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng Từ bi, hỷ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời phấn đấu vì hạnh phúc an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà Sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời, hộ quốc, an dân. Đặc biệt lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công lao của vị vua anh minh Trần Nhân Tông có công lớn lãnh đạo nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khi đất nước thái bình, Người nhường ngôi từ bỏ giàu sang, quyền quý, tìm đến nơi non cao Yên Tử để học Phật tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm, một dòng Thiền riêng của Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay.”
17/12/2017(Xem: 70523)
Bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển, chiếm tới ba tập khổ lớn trong Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu, mỗi tập trên dưới 1.000 trang, mỗi trang độ 1.500 chữ, tổng cộng khoảng 4 triệu 500.000 chữ (Hán); thường được gọi là Đại Bát Nhã, mang số hiệu 220. Khoảng giữa năm 1973, theo quyết định của Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng gồm 18 vị được thành lập với Hòa Thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban, Hòa Thượng Minh Châu làm Phó trưởng ban và Hòa Thượng Quảng Độ làm Tổng thư ký. Trong kỳ họp tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào những ngày 20, 21, 22 tháng 10 năm 1973 nhằm thảo luận phương thức, nội dung và chương trình làm việc, Hòa Thượng Thích Trí Nghiệm được Hội đồng phân công phiên dịch bộ Đại Bát Nhã 600 quyển này. Thực ra, Ngài đã tự khởi dịch bộ kinh này từ năm 1972 và khi được phân công, Ngài đã dịch được gần 100 quyển. Đây là bộ kinh lớn nhất trong Đại Tạng, đã được Ngài dịch suốt 8 năm (1972-1980) mới xong và đã dịch theo bản biệt
15/12/2017(Xem: 88326)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 138715)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
15/12/2017(Xem: 10307)
Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hòa, môn đồ pháp quyến vô cùng kính tiết báo tin: Hòa thượng Thích Ngộ Trí. Chứng minh BTS GHPGVN thị xã Ninh Hòa. Trụ trì chùa Trường Thọ. Do niên cao lạp trưởng, Hòa thượng đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 14 giờ ngày 12/12/2017 (25/10 Đinh Dậu) tại chùa Trường Thọ, tổ dân phố 10, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trụ thế: 75 năm, Hạ lạp: 47 năm.
27/11/2017(Xem: 23317)
Do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã viên tịch vào lúc vào lúc 04h00 ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017) tại Quảng Hương Già Lam, 498/11 Lê Quang Định, Phường 1, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, trụ thế 86 Xuân Thu, 62 Hạ Lạp. Lễ nhập Kim Quan được cử hành vào lúc 19h00, ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017). Kim Quan được tôn trí tại Quảng Hương Già Lam, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]