Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trồng sen trên tuyết (bài viết của TT Thích Nguyên Tạng về xây chùa Việt ở hải ngoại)

10/11/201318:16(Xem: 35351)
Trồng sen trên tuyết (bài viết của TT Thích Nguyên Tạng về xây chùa Việt ở hải ngoại)

TRỒNG SEN TRÊN TUYẾT

Thích Nguyên Tạng






Sen vốn là loài hoa được xem như biểu tượng của Phật Giáo với ý nghĩa vô nhiễm và giác ngộ. Vô nhiễm vì gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, giác ngộ vì cho dù sinh ra trong bùn dơ nước đục vẫn cố vươn lên tạo dáng được một hình hoa với đầy đủ bốn yếu tố: cánh sen, nhụy sen, gương sen và hạt sen; phải chăng đó là năng lực phi thường của một loài hoa thắng pháp giác ngộ? Đúng vậy, bốn yếu tố của hoa Sen là biểu trưng cho Phật tánh của chúng sanh, dù còn hụp lặn trong biển khổ sinh tử, ba cõi sáu đường, nhưng vẫn có đầy đủ Phật tánh chân như, một khi tu tập đúng chánh pháp, Phật tánh ấy sẽ hiển lộ, giống như hoa Sen vượt lên trên mặt nước nở rộ một đóa Sen hồng tươi thắm.

Tôi còn nhớ lời của Hòa Thượng Thích Minh Tâm, khai sơn Chùa Khánh Anh, Paris, Pháp Quốc, đã nói trong Lễ Khánh Thành Tu Viện Quảng Đức rằng “xây chùa ở hải ngoại này cũng giống như đem Sen trồng trên xứ tuyết”. Ý Hòa Thượng muốn nói việc xây chùa ở hải ngoại thật khó khăn gian khổ giống như đem Sen mà trồng trên núi tuyết vậy. Chuyện tưởng dường như không thể, nhưng thực tế Sen đã được trồng và phát triển mạnh trên xứ tuyết ở thế giới phương Tây.

Sau năm 1975, hơn hai triệu người Việt đã từ bỏ quê hương lưu lạc trên xứ lạ quê người, dù lúc nào cũng biết mình là thân phận người tỵ nạn, nhưng với ý chí sắt đá và một lòng vì đạo, chư Tôn Đức Tăng Ni Việt Nam đó đây ở hải ngoại đã không quản ngại gian lao lần lượt dựng nên những ngôi chùa ngay nơi mình cư trú, để truyền trì mạng mạch Phật Pháp và bảo vệ nền văn hóa ngàn đời của dân tộc Việt.

Chùa là văn hóa quê hương,
Là nơi thể hiện tình thương giống nòi.

Từ Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu cho đến Úc Châu, nơi nào có cộng đồng người Việt thì nơi đó có ngôi chùa, chùa là biểu tượng tinh thần và tâm linh không thể thiếu của bất cứ ai tự xem mình là người Việt Nam truyền thống như lời của HT Mãn Giác:

Chuông vẳng nao nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.

Từ hai bàn tay trắng chư Tôn Đức đã tạo dựng các ngôi chùa trên các xứ tuyết. Ở hải ngoại hiện nay có trên 300 ngôi chùa Việt. Các ngôi chùa tiêu biểu sau đây đã xây dựng hoàn tất: Tại Hoa Kỳ có Chùa Việt Nam (Houston), Tổ Đình Từ Đàm Hải Ngoại (Dallas), Chùa Kim Cang (Atlanta), Chùa Giác Hoàng (Washington DC), Chùa Cổ Lâm (Seattle), Chùa Phật Tổ (Long Beach), Chùa Huệ Quang (Santa Ana), Chùa Phổ Từ, Chùa Đức Viên (San Jose)…, Ở Canada có Chùa Quan Âm (Montreal), Chùa Pháp Vân (Toronto), Chùa Trúc Lâm (Edmonton), Chùa Từ Ân (Ottawa)…. Châu Âu có Chùa Viên Giác (Đức Quốc), Chùa Khuông Việt, Chùa Đôn Hậu (Na Uy), Chùa Phật Quang (Thụy Điển), Chùa Thiện Minh (Lyon), Chùa Khánh Anh (Pháp Quốc). Úc Châu có Chùa Pháp Quang, Chùa Phật Đà, Chùa Linh Sơn (Queensland), Chùa Phổ Quang (Perth), Chùa Pháp Hoa (Adelaide), Chùa Phước Huệ, Chùa Pháp Bảo, Thiền Viện Minh Quang (Sydney), Chùa Bảo Vương, Chùa Quang Minh, Chùa Hoa Nghiêm, Chùa Phật Quang và Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne.


Tu Viện Quảng Đức tại Úc được TT Tâm Phương khai sơn vào ngày 20/6/1990 trong một căn hộ ba phòng trên con đường nhỏ Bamburgh St ở vùng Broadmeadows. Chùa được thành lập theo phương cách truyền thống của Phật Giáo VN ở hải ngoại là “cải gia vi tự”. Sau 5 năm sinh hoạt nơi đây Thầy Trụ Trì đã nỗ lực khôi phục lại tín tâm cho hàng Phật tử địa phương, giúp họ từng bước ổn định đời sống tâm linh trên hành trình tỵ nạn tha hương. Tuy nhiên sau một thời gian sinh hoạt, Tu Viện Quảng Đức đã gặp phải khó khăn đối với Hội Đồng Thành Phố địa phương và những người láng giềng bản địa, bắt buộc chùa phải dời đến một địa điểm mới.

TT Tâm Phương, cố Huynh Trưởng Cấp Dũng Nguyễn Đại Bột, Nhà báo Long Quân, anh Võ Đại Sinh, anh Ngọc Thiện Lý, anh Quảng Tịnh Thiều Văn Bình, chị Hồng Hạnh Tú Hoài…. là những người đầu tiên đặt chân đến ngôi trường Fawkner để tìm hiểu và cuối cùng đã đi đến quyết định mua với giá $350,000 Úc kim. Chư Tăng Ni và Phật tử ở đây phải biết ơn ông Thủ Hiến Jeff Kennet đã ra lệnh cho Bộ Giáo Dục bán đi 200 ngôi trường đã xuống cấp trầm trọng để xây dựng trường mới, nhờ vậy mà ngôi trường Tiểu học cũ kỹ ngày nào bỗng chốc đã trở thành ngôi phạm vũ Quảng Đức trang nghiêm như chúng ta thấy ngày hôm nay.

Sau nhiều tháng tái tạo, sửa sang, trang trí cho thành hình một ngôi Tu viện. Ngày 20/11/1997, Tu viện đã tổ chức Lễ An vị Phật và Khánh Tạ thật trọng thể và trang nghiêm tại địa điểm mới này. Đến năm 1998, Tu viện đã xây dựng thêm: Hàng rào mặt tiền (dài 90m), Cổng Tam Quan, Tượng đài Quan Âm Lộ Thiên, Vườn Lâm Tỳ Ni, Vườn Lộc Uyển...Vì Tu viện vốn là một trường học được xây dựng trên 100 năm, tất cả mọi thứ đều xuống cấp, nên buộc lòng phải xây cất điện Phật để đáp ứng nhu cầu tu học cấp bách của Phật tử xa gần dù trong thời điểm khó khăn nhất về kinh tế. Ngày 10 tháng 12 năm 2000, Tu viện đã tổ chức lễ Đặt Viên Đá đầu tiên để tiến hành công trình xây dựng. Sau ba năm dài kiến thiết, ngôi chánh điện được xây dựng hoàn thành với tổng chi phí là 2 triệu Úc Kim. Đại lễ khánh thành đã được tổ chức vào ba ngày 10, 11 và 12 tháng 10 năm 2003, đánh dấu một chặng đường mười ba năm có mặt Tu Viện Quảng Đức trên xứ Úc. Trong dịp lễ đặc biệt này cũng là Đại hội Bất thường Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và lễ suy tôn Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang lên ngôi vị Đức Đệ Tứ Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trước một thính chúng uy nghi, nhiệt thành gồm 134 chư Tôn Đức Tăng Ni và 5.000 Phật tử xa gần cùng về tham dự lễ.

Vào mùa Phật Đản năm 2008, TT Tâm Phương đã phát nguyện xây thêm Tăng Xá Quảng Đức và Bảo Tháp Tứ Ân, đây là công trình xây dựng quan trọng thứ hai của Tu Viện. Sau 6 năm tạm ngưng xây dựng, ngôi nhà Đông phía bên phải của chánh điện (vốn là văn phòng của trường Tiểu học Fawkner được tạo dựng hơn 100 năm trước) đã xuống cấp trầm trọng, Tu Viện phải tiến hành phá bỏ ngôi nhà, để rồi ngay trên khu đất này Bảo Tháp Tứ Ân và Tăng Xá đã được khởi công xây dựng.

Bảo Tháp Tứ Ânđược thiết kế gồm 4 tầng, cao 14m và rộng 5m, tầng cao nhất thờ Xá Lợi Phật và 3 pho tượng Tam Thánh Tây Phương: Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Âm & Bồ Tát Thế Chí (bằng đồng); tầng 2 và 3 thờ Bồ Tát Địa Tạng và linh cốt của những Hương linh quá vãng ký tự tại Tu Viện Quảng Đức. Tầng 1 tôn trí 5 pho tượng Phật A Di Đà, thế giới Hoa nghiêm, Liên hoa đài tạng và một thư viện nhỏ. Tăng Xá có chiều dài 20m, rộng 11m, gồm 2 tầng có 12 phòng ngủ, có phòng khách và một gác lửng 8x16m dùng làm thiền đường và phòng hội họp của chư Tôn Đức.

Kinh phí xây dựng công trình này theo chiết tính của kiến trúc sư Nguyễn Kiển Thành và các kỹ sư xây dựng đã lên đến $900,000 Úc kim. Sau một năm xây dựng, Tăng Xá đã hoàn tất và được cắt băng khành thành nhân dịp lễ Khai mạc chiêm bái Phật Ngọc vào ngày 5-12-2009 vừa qua. Hiện tại Bảo Tháp Tứ Ân vẫn tiếp tục xây dựng và hy vọng sẽhoàn thành như ý nguyện trước Đại Lễ Kỷ Niệm Chu Niên 20 năm vào trung tuần tháng 10 sắp tới.

Kinh phí ở đâu? Quý Thầy hay đùa với nhau rằng “vị nào cũng ăn cơm với xì dầu mà chùa nào cũng xây đến bạc triệu”, câu nói tuy đùa nhưng đó là sự thật. Nói ra ai cũng giật mình khi biết kinh phí thật sự của các ngôi chùa đã tạo dựng trên các xứ tuyết này, như Chùa Khánh Anh do HT Minh Tâm xây dựng tại Paris, đang xây dựng đến 70% của công trình, kinh phí đã lên đến mười hai triệu Euro; Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc do HT Như Điển xây dựng hoàn thành năm 1993 với kinh phí chín triệu Đức Mã; Tổ Đình Từ Đàm Hải Ngoại ở Dallas, Texas, do HT Tín Nghĩa khai sáng và xây dựng đầu năm 1998 và hoàn tất cũng như khánh thành vào ngày 10-10-1998, tổng kinh phí là một triệu hai trăm ngàn Mỹ kim (1,200.000$US); Chùa Pháp Vân ở Toronto, Canada do TT Tâm Hòa khởi công xây dựng năm 2000 và hoàn tất vào tháng 3 năm 2001 với tổng chi phí $2.625.000; Chùa Pháp Bảo ở Sydney do HT Bảo Lạc xây dựng từ năm 1984, khánh thành đợt 1 năm 1985 và lễ hoàn nguyện khánh thành năm 1998 với tổng kinh phí là ba triệu rưỡi Úc kim; Chùa Pháp Quang do TT Nhật Tân thành lập, khởi công năm 1997 hoàn tất năm 1999 tổng chi phí $850,000; Thiền Viện Minh Quang ở Canley Vale do Sư Minh Hiếu sáng lập, xây dựng với tổng chi phí một triệu rưỡi Úc kim; Tu Viện Quảng Đức xây dựng xong chánh điện vào năm 2003 và Tăng Xá và Bảo Tháp Tứ Ân (2010), tổng số chi phí đã lên đến ba triệu Úc kim.

Ai cũng thắc mắc không biết quý Thầy lấy tiền đó ở đâu để xây chùa? Xin thưa tiền xây chùa là của thập phương bá tánh, có người cúng một dollar cũng có người cúng 500 ngàn Đức Mã như một đệ tử của HT Như Điển đã gởi cúng khi Ngài xây dựng Chùa Viên Giác. Số tiền để xây chùa, đúc tượng đó, kỳ thực được góp lại từ những lần gây quỹ cơm chay, bán thực phẩm chay, bán hội chợ, gom từng đồng từ lon tiết kiệm, mượn trả góp không lấy tiền lời của Phật tử địa phương v.v... Tất nhiên không có ngôi chùa nào được cúng bằng tiền của một người mà gom lại từ những tấm lòng thành thanh tịnh, tha thiết vì đạo, với ước nguyện truyền trì ngọn đèn chánh pháp ở thế gian, đem ánh sáng giác ngộ đến cho chúng sanh, chính nhờ vậy mà ngôi chùa mới được tồn tại dài lâu trên cõi đời này.

Gian lao khổ nhọc:  Xây chùa là một Phật sự lớn, vị Thầy trụ trì luôn trăn trở, lo lắng để mong sao cho công trình sớm hoàn thành, để ổn định đời sống tu tập cho mình và cho người. Thầy gian lao khổ nhọc, nên những người thân cận bên Thầy, những đệ tử gần gũi, những tín đồ xung quanh cũng không thể tránh được sự gian lao khổ nhọc này. Do vậy mà không ít người hiểu sai, trách móc hoặc nặng lời chỉ trích về việc xây chùa, có người thậm chí bỏ chùa, giận chùa vì chùa không chịu tu học mà cứ lo xây dựng, phần lớn các chùa trong quá trình xây dựng đều nếm trải kinh nghiệm này. Ắt có người không hiểu hết được lịch sử hình thành và phát triển của Phật Giáo đã từng thắc mắc: “Ngày xưa Phật đâu có xây chùa, Phật tu dưới gốc cây, ngủ dưới gốc cây và rồi cuối cùng nhập diệt dưới gốc cây, tại sao bây giờ quý Thầy xây chùa làm gì để cho Phật tử khổ?”. Thực ra ngay thời Phật còn tại thế đã có chùa và chùa lớn có thể dung chứa 1.250 vị tỳ kheo chung sống dưới sự hướng dẫn của Đức Phật, đó là Chùa Trúc Lâm dưới chân núi Linh Thứu do Vua Tần Bà Sa La dâng cúng; đó là Chùa Kỳ Viên do Thái Tử Kỳ Đà và Tỷ phú Cấp Cô Độc cúng dường. Hai Phật tích này hiện nay vẫn còn lưu dấu trên xứ Ấn Độ, chúng ta có thể đến đó chiêm bái để biết rằng thời Đức Phật đã có chùa.


Ngôi chùa là biểu tượngthiêng liêng của đạo giải thoát, là nơi quay về của người đệ tử Phật trong cõi đời phiền lụy khổ đau này, là địa điểm ươm mầm giác ngộ cho người tu Phật. Ngôi chùa rất quan trọng trong cõi giới Ta bà này cho những ai hướng tâm về mục đích giải thoát. Xây chùa cũng là pháp tu cúng dường Tam Bảo, trong đó Phật Bảo là quan trọng. Việc xây chùa, thỉnh tượng, đúc chuông, dâng hương đăng trà quả, đóng góp tịnh tài vào thùng phước sương là sự bày tỏ lòng tri ơn của người đệ tử Phật và cũng để hoằng dương Chánh Pháp. Ngôi Tam Bảo được huy hoàng và trang nghiêm trên thế gian sẽ làm tăng thêm lòng tín tâm cho những người đi chùa, lễ Phật, tu hành theo giáo lý để đạt đến giác ngộ và giải thoát, do đó công đức xây chùa thật không thể nghĩ bàn.

Ơn nghĩa bốn bề:Sự thành tựu khiêm tốn của Tu Viện Quảng Đức hôm nay đó là sự kết tụ bằng mồ hôi, nước mắt, bằng tâm lực, ý nguyện và hoài bão của Thầy Trụ Trì Thích Tâm Phương cùng Tăng Ni và Phật tử tại gia trong và ngoài quốc gia Úc Đại Lợi này.

Khi đặt chân đến Tu Viện Quảng Đức vào đầu tháng tư năm 1998 theo diện nhà truyền giáo (Minister of religion) do bào huynh Tâm Phương bảo lãnh, những tháng ngày đầu còn bỡ ngỡ chưa quen với không gian, thời gian và khí hậu lạnh lẽo của xứ Úc này, nhưng người viết đã cảm thấy ấm áp tình người, tình đạo, tình Thầy trò do các Phật tử nơi này mang đến. Sự tiếp đón ân cần thân thiết của bào huynh và quý Phật tử bổn tự, đã giúp từng bước thích ứng được với hoàn cảnh mới và tạm quên đi nỗi nhớ nhung đối với Thầy Tổ, huynh đệ, gia đình còn ở lại quê nhà.

Hội nhập vào hoàn cảnh mới với tâm nguyện hoằng pháp là bổn phận, lợi sinh là lẽ sống của một người tu sĩ, người viết bắt đầu thực hiện những gì cần phải làm. Cùng với Thầy Trụ Trì, chúng tôi đã động viên các anh các chị Nguyên Dũng, Thục Hà, Chúc Phục, Nguyên Tâm, Giác Tâm, Nguyên Giác, Như Huyền, Kim Ánh, Như Thảo… để rồi ngày 15 tháng 6 năm 1998 GĐPT Quảng Đức và trường Bồ Đề Việt Ngữ được chính thức ra mắt với sự chứng minh của chư Tôn Đức trong Giáo Hội. Từ đó dưới mái Chùa có thêm những sinh hoạt nhộn nhịp của các em GĐPT và bóng dáng các em nhỏ với chiếc cặp trên vai đến chùa ê a học ngôn ngữ của quê hương mình, dưới sự hướng dẫn của các thầy, cô giáo nghiệp dư nhưng đầy nhiệt tình như thầy Đức, thầy Viêm (đã mãn phần), thầy Tài, cô Chung, cô Như Huyền, cô Ánh Nguyên Nhật Minh, cô Mỹ Hạnh Nguyên Nhật Khánh, cô Bích Nghiêm…Công đức thiết lập Trường Bồ Đề Việt Ngữ này phải ghi ơn ông bà Tiến Sĩ Lưu-Thanh, người giúp đỡ cho Tu Viện mọi thủ tục hành chánh và làm việc trực tiếp với Bộ Giáo Dục của tiểu bang Victoria.

Góp mặt với sinh hoạt của xã hội bên ngoài, ngày 1 tháng 7 năm 1998 người viết chính thức là thành viên trong Hội đồng Giáo sĩ tuyên úy (Healthcare Chaplaincy Council Of Victoria) để thường xuyên viếng thăm, an ủi bệnh nhân và tù nhân tại các bệnh viện, nhà tù trong tiểu bang. Thường lái xe đưa chúng tôi đi đến những nơi đó là bác Nguyên Lượng, anh Huệ Thuyền, Quảng Nghĩa, Quảng Trí, Steve Nguyên Thiện Bảo, Chris Dunk Quảng Từ, John Tavener Quảng Đức Minh, Matthew Quảng Trí Tuệ…

trong_sen_tren_tuyet-2

Tiếp đến, với sự phát triển vô song của ngành công nghệ tin học và mạng lưới internet - siêu xa lộ thông tin, nối mạng toàn cầu giữa các máy điện toán cá nhân, đã tác động mạnh đến đời sống con người, Phật giáo luôn khế hợp và phù hợp với mọi sự thăng tiến của nền khoa học hiện đại, cũng như vận dụng được mọi sự phát triển của khoa học để hỗ trợ cho công cuộc lăn chuyển bánh xe Chánh Pháp trên thế gian này. Với tinh thần đó, ngày 15 tháng 5 năm 1999 nhân dịp đại lễ Phật Đản, chúng tôi cùng với Thầy Trụ Trì đã thành lập “Thư Viện Điện Tử” www.quangduc.com nhằm phổ cập giáo lý nhà Phật trên toàn thế giới, tạo cơ hội dễ dàng cho mọi người học hỏi, để thăng hoa đời sống tâm linh của mình. Cho đến nay Thư Viện đã dung chứa trên 200.000 văn bản tài liệu kinh sách, giáo lý, triết lý, tâm lý, luận lý Phật Giáo, truyện tích, thơ ca, các sáng tác về Tết Nguyên Đán, về Phật Đản, về Vu Lan Báo Hiếu, Thánh tích PG, Từ Điển Phật Học, hình ảnh sinh hoạt và xây dựng Tu Viện Quảng Đức. Trang nhà Quảng Đức được tồn tại đến ngày hôm nay cũng là nhờ Ni Sư Nhật Nhan, Đạo hữu Tâm Kiến Chánh, Nguyên Đáng, Diệu Tịnh, Quảng Thanh, Nguyên Đức, Diệu Kim, Đức Nghiêm, An Hậu Tony Thạch và ông bà Nguyên Phúc-Samuel Goodwin... đã phát tâm cúng dường tịnh tài để trang trải chi phí host server trong hơn 10 năm qua. .. Về phần layout bài vở, hình ảnh và cập nhật trang nhà xin tán thán công đức của quý Phật tử Thiều Đức, Trà My Nguyên Nhật An, Hải Hạnh, Nhị Tường, Quảng Như, Diệu An Quảng Tuệ Duyên, Thiện Hưng, Nguyên Hân, Nguyên Nhật Khánh, Hoàng Lan, Thục Đức, Nhã An, Mỹ Liên, Quảng Tuệ Nguyện, Quảng Hội....cùng hơn 100 Phật tử khác trên thế giới phát tâm đánh máy tài liệu cho trang nhà. Bên cạnh đó các anh Quảng Tịnh Thiều Bình, anh Đức Nguyên Tâm, Quảng Trí Thừa Vũ, anh Hiếu Glenroy, anh Lê Hiếu Sàigòn, Michael... là những người luôn hỗ trợ về phương diện máy móc để chúng tôi có đủ phương tiện cập nhật hóa trang nhà Quảng Đức. Bên cạnh thư viện điện tử, Tu Viện còn lập Ban Ấn Tống Kinh Sách, băng đĩa để phổ biến lời Phật dạy. Trong nhiều năm qua, Ban Ấn Tống đã làm việc thường xuyên để phát tặng không cho đồng hương Phật tử tại Úc châu và trên thế giới 30.000 CD, DVD kinh sách, băng đĩa, tài liệu trang nhà Quảng Đức, các VCD, DVD, CD niệm Phật, thuyết pháp đủ loại, và cũng đã cúng dường những băng đĩa này cho các ngôi chùa ở vùng sâu vùng xa ở quê nhà VN. Xin tán thán công đức của quý đạo hữu Chúc Diệu, Chúc Thiên, Quảng Thanh, Tâm Thuận, Tâm Quang, Đức Nghiêm, Nguyên Nhật Hòa… đã cúng dường tịnh tài để mua các loại máy in, sang băng, đĩa miễn phí, và tán dương công đức của quý Phật tử: Chánh Thông, Thanh Tâm, An Hạnh, An Nguyệt, Nguyên Phúc (Mỹ); Thanh Phi, Hồng Hạnh, Nguyên Từ (lo tịnh tài để thiết lập Thư Viện tại Tu Viện), Nguyên Hân, Hải Hạnh, Giác Định, Viên Trí, Quảng Đạo, Nguyên Phụng, Doris Quảng Tuệ Liên (Úc), Diệu Nga, Diệu Liên (Canada), Huệ Liên (Anh Quốc), Diệu Đại, Quảng Đại, Quảng Khánh, Quảng Tuệ Hương (VN)…. đã giúp mọi việc cho Ban Ấn Tống hoàn thành công việc.




Tu viện Quảng Đức thành lập được 20 năm, người viết có được 12 năm để chứng kiến hình ảnh các anh Hồng Vân builder, Kiến Trúc Sư Nguyễn Kiển Thành, Hiền Tâm Quang, anh Thành, anh Thủ Lang, anh Minh, anh Ngọc Thiện Lý, anh Chinh, anh Mười Quảng Lực, anh Đạt, anh Công Đạo, anh Công Lý, anh Lâm, anh Nguyên An, anh Nhuần, anh Duyên Nguyên Truyền, Anh Hùng Springvale, chú Kỳ,..... đã không quản khó khăn cực nhọc tiếp tay trong công trình xây dựng Tu Viện. Trong 20 năm, Tu Viện chưa bao giờ dừng nghỉ xây dựng, cứ mỗi cuối tuần các anh đều có mặt tại Tu Viện để làm công quả, khi có việc cần dù mưa hay nắng các anh cũng cố gắng hoàn thành. Chúng tôi cũng đã thấy được hình ảnh Sư Cô Hạnh Nguyên, Cụ Bạch Vân, Cụ Đức Ngọc, Dì Mười Ngọc Hoa, Dì Bảy Diệu Phước, Cô Tám Hạnh Ngọc, Cô Diệu Kim, Cô Diệu Dung, Cô Nguyên Châu cùng các chị Kim Anh, Kim Ngọc, Hoa-Nhân, Nguyên Như, Quảng Hạnh, Diệu Toàn, Quảng Liên, Diệu Hiền, Nguyên Giác, Nguyên Hỷ, Thu-Nghĩa, Quảng Phước, Thu Lệ Phước, Thanh Phi, Hồng Hạnh, Quảng Hương, Quảng Tịnh, Nhã An, Michael, Tâm Hương, Quảng Thi, Nguyên Đà, Nguyên Thảo, chị Giàu, Tâm Hương, Tịnh Châu, Tâm An, Quảng Niệm, Thùy, Ngọc Nhàn, Nguyên Thiện Hạnh, Nhật Phước, Ngọc Ánh, Diệu Hương, Chân Mỹ Lương cùng nhiều Phật tử khác chia nhau mỗi người mỗi việc để có được những tiếp đón ân cần và những bữa ăn tươm tất cho Chư Tôn Đức cùng các Phật tử đến tham dự vào những ngày lễ lớn hoặc hằng tuần; không ít lần thấy được các cụ, các dì và các chị đã vất vả trong những ngày cơm chay gây quỹ, mỗi 3 tháng 1 kỳ, hoặc làm thức ăn chay để bán gây quỹ cho Chùa. Bên cạnh đó, các buổi đại lễ của Tu Viện như Phật Đản, Vu Lan, các kỳ tiệc chay gây quỹ đều do Đạo Hữu Nhật Thiên Kiều Thu, Diệu Anh Quỳnh Trâm, Nguyên Dũng Phạm Thanh Hùng, Kiều Oanh Nguyên Nhật Thơ, Nguyên Hoa Everlyn Nguyễn... làm MC, điều hợp viên chương trình các buổi lễ thật trang nghiêm và long trọng.

Chúng tôi ghi lại nơi này lòng chân thành cảm niệm tri ân và tán thán công đức tất cả Phật tử đã hết lòng phụ giúp Thầy Trụ Trì Tâm Phương và bản thân tôi trong thời gian qua trên mọi phương diện, để xây dựng và phát triển Tu Viện Quảng Đức cho đến tận hôm nay.

Xin nguyện cầu hồng ân Chư Phật gia hộ cho những người con Phật luôn được an lành, Bồ đề tâm kiên cố và mong rằng tất cả sẽ tiếp tục là những cánh tay đắc lực giúp quý Thầy trong công cuộc xây dựng, bảo trì và hoằng dương chánh Pháp trên xứ tuyết này. Hy vọng một ngày không xa, trách nhiệm tạo dựng cơ sở của người đi trước được hoàn thành, Thầy trò chúng ta sẽ được thong thả tinh chuyên tu tập và cùng hướng dẫn cho hàng con cháu mai sau. Mong lắm thay!


Nam Mô A Di Đà Phật
Viết tại Tu Viện Quảng Đức, mùa Phật Đản 2010
Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Phó Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức



Kính mời xem Kỷ Yếu 20 năm Tu Viện Quảng Đức đã layout


Ky_yeu_20_nam_tu_vien_quang_duc

Ý kiến bạn đọc
14/05/201712:37
Khách
Hoa sen tuyết đang ngày nở rộ
Hoằng dương chánh pháp ở trong tâm
Tự do dân chủ niềm chân lý
Đa nguyên bình đẳng của con người
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 7993)
Đại lão hòa thượng Thích Trí Nhãn thế danh là Đoàn Thảo, pháp danh Như Truyện, tự Giải Lệ, hiệu Thích Trí Nhãn. Ngài sinh ngày 10 tháng giêng năm Kỷ Dậu tức vào năm 1909 dương lịch, tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, Xã Thanh Hà, nay thuộc thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, Thị Xã Hội An.
09/04/2013(Xem: 15542)
Xuất thân trong một gia đình gia giáo có thân phụ là Chánh Tổng nên Hòa Thượng đã sớm hấp thụ Nho học và Tây học từ thuở ấu niên. Vì thế, Hòa Thượng đã thông thạo cả Hán văn lẫn Pháp văn, kết hợp và dung hòa được cả hai truyền thống văn hóa Đông – Tây.
09/04/2013(Xem: 12723)
Hòa Thượng thượng Tâm hạ Thành. Thế danh là Nguyễn Ðức Huân sinh năm 1930 tại làng Trà Bắc, Phủ Xuân Trường, Tỉnh Nam Ðịnh, Miền Bắc Việt Nam. Năm 1942 khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài ngộ lý vô thường và xuất gia học đạo với Sư Tổ Thượng Chính Hạ Ðĩnh tại chùa Yên Cư, Phủ Xuân Trường, Thuc Sơn Môn Trà Bắc. (Sơn môn Trà Bắc, Trà Trung và Trà Ðông thuc Tổng Trà Lũ, là hậu thân của Sơn môn Yên Tử). Ngài được Bổn Sư ban Pháp danh là Ngọc Tiểu Pháp hiệu Tâm Thành.
09/04/2013(Xem: 9679)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
09/04/2013(Xem: 7051)
Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.
09/04/2013(Xem: 4048)
Cho phép con thành tâm kính cẩn chia buồn với quí ngài về nỗi mất mát lớn lao không sao tìm lại được. Ðối với kẻ hậu học, làm sao con không khỏi bồi hồi, luyến tiếc khi hay tin sự ra đi của cố Hoà thượng Thích Ðức Nhuận, người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Trong giờ phút này, nơi phương xa, một người đệ tử đã có nhân duyên muộn hầu cận, học hỏi nơi cố Hoà thượng khi còn ở Việt Nam, xin đảnh lễ chư tôn đức trong Tổ đình và xin quí ngài cho con có đôi lời bộc bạch với giác linh của cố Hoà thượng. Ngưỡng bạch giác linh Hoà thượng chứng giám.
09/04/2013(Xem: 7006)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái.
09/04/2013(Xem: 19442)
Để ghi lại những công –tác Hoằng-pháp và Giáo-dục trong niên-khóa vừa qua, chúng tôi đã thuyết-pháp và giảng-giải các lớp ở Ấn-Quang cho hàng Phật-Tử tại gia, cũng như tại Viện Đại Học Vạn-Hạnh cho sinh-viên Phật-khoa năm thứ IV (73-74) về môn các tác phẩm Trung-Hoa. Và cũng thể theo lời yêu cầu của đa-số Phật-tử muốn có tài-liệu để học-tập và nghiên-cứu, nên chúng tôi gom góp các bài đã biên-soạn, đúc kết thành một tập sách với nhan đề: “GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA”.
09/04/2013(Xem: 10631)
hế danh của Sư Bà cũng chính là Ðạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Ðàm Soạn, Trú trì chùa Cự Ðà và được Sư Cụ đặt tên là Ðàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Ðặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, Bắc Việt Nam.
09/04/2013(Xem: 5881)
Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Học lực: Cử nhân giáo dục và Cao học Phật giáo tại Nhật Bản. Gia cảnh: Con út trong số 8 người con gồm 5 trai và 3 gái; Thân phụ: Ông Lê Quyên, pd: Thị Tế, Thân mẫu: Bà Hồ thị Khéo, pd: Thị Sắc. Người anh thứ bảy đã xuất gia đầu Phật năm 1958 tại chùa Non Nước, Đà Nẵng. Hiện là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL, Phương Trượng Tự Viện Pháp Bảo tại Sydney, Úc Đại Lợi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]