Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cánh Hạc Long Sơn (Tịnh Minh)

19/10/201307:03(Xem: 10857)
Cánh Hạc Long Sơn (Tịnh Minh)

HT-Thich-Chi-Tin doc sach-760


CÁNH HẠC LONG SƠN

Cẩn niệm Đại lão Hòa thượng Thích Chí Tín

trụ trì chùa Long Sơn Nha Trang



Đúng 11g30 khuya ngày 19/9/2013, nhằm ngày rằm tháng 8, lễ hội Trung thu, được thầy Nguyên Vương nhắn tin: “Nhất tâm đảnh lễ tân viên tịch Đại lão Hòa thượng Thích Chí Tín”, tôi giật mình, sững sờ một lát với chiếc điện thoại trên tay. Sững sờ vì mới rằm tháng Bảy, lễ hội Vu lan, nhân dịp về Giác Hải dự lễ húy nhật Bổn sư, tôi có ghé Long Sơn hầu thăm Ôn, nghe Ôn hàn huyên tâm sự thật là cảm kích và thú vị. Vậy mà … chỉ sau một tháng, rằm tháng Tám, Ôn thanh thản ra đi, không một chút ốm đau bệnh tật. Nghe nói Ôn chợt bị cảm lạnh, các thầy đánh dầu, xoa bóp và muốn đưa Ôn đi bệnh viện, nhưng Ôn nói: “Cảm cúm sơ sơ mà bệnh viện cái gì!”. Rồi Ôn hỏi: “Hôm nay có phải ngày rằm hôn?”. Thế đấy!... Đúng 20g Ôn giã từ trần cảnh, về cõi vô dư, rõ là Thiện thệ, Thiện thệ!...

Phải nói là tôi có chút duyên lành, được Ôn thương mến từ khi còn để chỏm. Tôi ở Phật học viện Hải Đức, không phải Tỉnh Hội, vậy mà có khá nhiều kỷ niệm với Ôn. Xin nêu ra đây đôi điều mắt thấy tai nghe, gọi là niệm chút ân tình tròn nửa thế kỷ với bậc Tôn sư, Trưởng lão.

1. Yêu thương chúng điệu: Có lẽ Ôn xuất gia từ thời thơ ấu nên rất cảm thông lân mẫn với chúng điệu trong cảnh thiền môn. Lớp Tăng sinh đầu tiên được tổ chức tu học tại Tăng học đường Nha Trang vào thập niên 1950 phần lớn do Ôn chăm lo cơm áo sách đèn và họ đã thành tựu rực rỡ về hai mặt đạo nghiệp và thế học. Đám điệu nhóc chúng tôi ở Hải Đức nhưng học trường Bồ Đề nên thỉnh thoảng được Ôn đón đường đùa giỡn và cho bánh kẹo. Ôn đã lưu lại trong lòng tuổi thơ chúng tôi những hình ảnh gần gũi, thân thương, nồng nàn và thiêng liêng như cha mẹ.

Chua_Long_Son,_Nha_Trang2. Mật hạnh bao dung:

Được Ôn để ý, chiếu cố từ nhỏ nên hễ có dịp là tôi ghé Long Sơn thăm Ôn, lắng nghe Ôn hàn huyên tâm sự về những chuyện thiền môn xa xưa ở Nha Trang. Sau 30/4/1975, theo thể chế giáo dục hiện hành, tôi phải về Ninh Hòa mấy lần để thu xếp việc trường Trung học Bồ Đề, ghé đến thăm Ôn, lưu lại vài ba hôm, được tận mắt chứng kiến mật hạnh vi tế, lượng cả bao dung của Người.

Đêm hôm ấy, Ôn bắt tôi ngủ trên giường, còn Ôn thì nằm trên ghế trường kỷ đối diện. Tôi chắp tay xá xá và thưa:

- Bạch Ôn, con không dám, xin cảm ơn Ôn!

- Ơ kìa, Ôn nói, tui cho phép, đừng ngại! Tui nằm ở đâu muỗi cũng không đốt. Tất cả muỗi mòng ở núi rừng này đều là môn đồ pháp quyến của tui. Tịnh Minh nằm đây chúng khiêng đi mất!”

Bất đắc dĩ tôi phải vâng lời. Chiếc giường của Ôn rộng khoảng một mét hai, dài khoảng một mét tám, nhưng nồi niêu xoong chảo, bánh trái dầu đèn, thúng mủng chồng chất chiếm khoảng một phần ba phía dưới chân. Tôi tự dặn lòng là phải nằm nghiêng, giữ nguyên một thế, kẻo ngay giò là đổ bể lung tung. Gần cuối đêm, chợt nghe tiếng động nhẹ, tôi mở mắt nhìn sang thì thấy Ôn vừa tuột xuống ghế, ngồi kiết già sừng sững như môt pho tượng trên sàn nhà. Tôi khe khẽ nhõm dậy, chắp tay xá xá, liếc nhìn đồng hồ thấy bốn giờ, và cũng công phu theo Ôn.

Đến năm giờ, Ôn xả thiền, lên tiếng gọi tôi, rồi ra sau hè nhóm lửa nấu nước, nấu cơm, chuẩn bị bữa ăn sáng đạm bạc cho các Ôn, các thầy, kể cả các chú. Ngày nào cũng thế, ba lần nấu cơm, cặm cụi hoan hỷ. Thấy Ôn vất vả, đường đường là một Như Lai sứ giả: Nhập Như Lai thất, tọa Như Lai tòa, hành Như Lai sự, vậy mà nay phải kiêm nhiệm vai trò anh nuôi, ngày đêm cần mẫn, chăm chút trong ngoài, không một lời than phiền, mệt mỏi. Trong lúc hàn huyên, tôi hỏi:

- Sao Ôn không bảo chú nào giúp cho một tay?

- Thời buổi khắt khe, mình tự lo liệu, không dám nhờ vã!...

Rồi Ôn kể qua bao cuộc thăng trầm, loạn ly tang tóc. Đặc biệt là năm 1975, dân di tản từ cao nguyên chạy xuống, miền Trung tràn vào, chùa Tỉnh Hội biến thành nơi tị nạn. Người đông chen chúc, bẩn thỉu ồn ào ngay trong chánh điện. Thê thảm nhất là nhiều người ngã bệnh từ trần, bơ vơ lạc lõng. Ôn phải xoay xở cho ra quan quách, thuê người tẩm liệm tử thi, rồi chở xuống nghĩa trang Phật giáo mai táng.

Những năm sau đó, thấy dân tình khốn khổ, bệnh tật gia tăng, Ôn chắt chiu từng trái cam trái chuối, Chủ nhật nào cũng mang xuống bệnh viện làm quà cho bệnh nhân, ngõ hầu xoa dịu được phần nào cảnh cơ hàn bức bách của họ. Vì vậy mà nhác thấy hình bóng Ôn trong bộ đồ nâu bạc màu dung dị, mọi người đều chắp tay reo lên: Ông Phật đến, Ông Phật đến!... Thế đó!... Ôn đã âm thầm gieo vào lòng người bất hạnh những hạt giống từ bi trí tuệ của chư Phật.

3. Trực ngôn quyền biến: Với Phật sự nêu trên, một hôm tôi về Ninh Hòa, đến Nha Trang lúc ba giờ khuya, tôi phải ghé Long Sơn tá túc. Gõ cửa Ôn ba lần mà không nghe động tịnh, tôi bèn nằm đại trên chiếc bàn hình chữ nhật trước hiên chùa. Đến 4 giờ rưỡi, toán dân quân tự vệ năm người cầm cây ập đến, vây quanh tôi, lớn tiếng quát nạt với mặt mày dữ tợn. Tôi nói lý do và xuất trình giấy tờ tùy thân hợp lệ. Họ xem qua, hạ giọng nói: “Đúng là thầy giáo. Xin lỗi thầy! Thầy tiếp tục ngủ đi rồi sáng về Ninh Hòa.” Tôi chắp tay chào, ngỏ lời cảm ơn, và thầm nghĩ: “Tinh thần tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam còn cao như núi!”

Sáng ra, Ôn nói:

- Tui nghe gõ cửa nhưng cứ tưởng là công an đến soát chùa!

- Vậy chứ họ gõ, tôi hỏi, Ôn vẫn không mở?

- Họ làm dữ thì mình mở chứ! Họ đòi tui xuống bót cảnh sát hoài nên im được hồi nào thì im! Họ bắt tui phải cấm Phật tử đến chùa tụng kinh sám hối vào hai ngày mồng một và rằm. Tui nói các ông cấm chứ tui cấm sao được, truyền thống mà! Họ hỏi lung tung. Hỏi đâu tui đáp đó. Cuối cùng họ gắt giọng:

- Anh nói thật hay nói láo?

- Có lúc phải nói láo chớ! Tui đáp.

- Thầy chùa mà nói láo! Họ trợn mắt quát.

- Tui không nói láo thì giặc Pháp đã chặt đầu mấy ông cán bộ Việt Minh trốn trong chùa tui rồi!

- Vậy hả?... Họ là ai?

Tui kể một loạt. Chẳng hay họ có biết ai hôn, nhưng thay đổi thái độ và xuống giọng nói: “Vậy anh là người tốt! Thôi, anh về đi! Cứ thế mà làm, nhưng phải cảnh giác bọn xấu trà trộn vào chùa nhé!

Ai dám bảo Ôn Long Sơn chất phác, chỉ biết đóng mở cửa chùa?

4. Kết nối thiện duyên:

Nhân dịp Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2008 được tổ chức tại Việt Nam, Ôn nhờ tôi viết một tiểu phẩm về Đức Phật Thích Ca bằng tiếng Anh để biếu cho du khách, vì họ thường vô chùa lễ Phật viếng cảnh, ngắm nhìn cốt cách đặc biệt của Ôn mà chẳng có gì kỷ niệm. Theo lời yêu cầu, tôi biên soạn một tiểu phẩm dày khoảng 50 trang, khổ 14x20cm mang tựa đề: The Buddha And His Major Religious Instructions. Và từ đó, những du khách nói tiếng Anh cứ lần lượt vào chùa thăm Ôn, nhận quà lưu niệm với lòng vui hớn hở. Tiếng lành đồn xa, sau đó đa số đều mang tượng Phật trên cổ, cung kính trình Ôn, ngỏ ý xác định: “Con là Phật tử đây!” để được nhận quà. Một hôm gặp tôi Ôn khoe: Cuốn sách T.M viết tui photo ấn tống mỗi cuốn ba ngàn mà đã lên đến hơn mười lăm triệu rồi đấy! Trời ơi!... Tôi trố mắt, chắp tay xá Ôn với cõi lòng lâng lâng phơi phới.

5. Ngữ khí khôi hài:

Đối với đồng môn pháp lữ, phật tử xa gần, Ôn đều hành xử nghiêm trang trịnh trọng; nhưng với môn đệ quen thân, Ôn rất thoải mái, nói cười hoan hỷ, thư giãn khôi hài. Có lần Ôn hưng phấn nói: B52 Mỹ chỉ có khả năng bắn phá thành lũy, gây đau thương tang tóc cho chúng sanh, chứ không thể triệt tiêu định kiến của con người. Chính vì thế mới có cái gọi là thánh thần thánh chiến, khủng bố khủng hoảng, chủ nghĩa chủ thuyết ì-xèo!... Ôn vỗ tay cái bốp và cười thoải mái.
Còn việc di dời nghĩa địa, Ôn luận tiếp, nghĩa địa nào? Cái nghĩa địa tuy nhỏ nhưng dung lượng to lớn nhất, bất tịnh nhất, ngày đêm vùi lấp không biết bao nhiêu thân xác chúng sanh, vậy mà nó ít khi được cải tạo, di dời! Nghĩa địa đó ở mô? Đây này!... Ôn đưa ngón tay trỏ gõ gõ cái bụng, nói: Nếu không chạy lạt thì vạn loại hữu tình cứ mặc nhiên mà ngàn thu vĩnh biệt ở cái nghĩa địa này. Đúng hôn?...

Chưa hết, thiên hạ có cày mà không có ruộng nên mới đòi quyền người cày có ruộng. Còn chúng ta… ruộng đồng phì nhiêu, cày bừa tinh xảo, vậy mà cứ thích vác cày đi chơi chứ chẳng thiết việc gieo trồng canh tác. Ôn lại cười thích thú!... Các thầy thấy đấy, chùa nào Tăng chúng đông, chùa đó nhiều đồng ruộng. Vì sao? Vì: “Thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, ngã kim đảnh đới thọ, thế thế bất xả ly”. Có nhiều ruộng phước như thế mà không ra sức cày bừa trồng trọt thì thật là oan uổng. Ôn lại ngả lưng ra ghế cười hả hê. Chúng tôi ai nấy đều mát ruột, nhìn đồng hồ, chắp tay xá Ôn và xin cáo lui.

Ra khỏi cửa, tôi cất lời cảm thán: “Nghe Ôn hàn huyên khôi hài mới thấy thế nào là kiến thức với trí tuệ, nhục nhãn với huệ nhãn. Biết đâu Lục tổ Huệ Năng phân thân thị hiện tại Long Sơn tự này!” Anh em đều cười, tỏ vẻ đắc ý.

Kính lạy Giác linh Ôn, Ôn đã suốt đờ tinh tu khổ hạnh, trải thân phụng sự chúng sanh, vươn tay kết nối duyên lành, vô ngại tùy cơ nhiếp hóa. Ôn đã đi trọn đoạn đường nhân thế, tâm tư rỗng lặng chan hòa, quét chùa tưới nước cắm hoa, mật hạnh ngát hương giải thoát. Hy hữu thay!...

Sài Gòn, ngày 10/10/2013

TỊNH MINH

(Đã đăng trong Tuần san Giác Ngộ, số 715, ngày 19/10/2013)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 10373)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 18807)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 7746)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6563)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 6035)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6596)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7194)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 7004)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11322)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6351)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]