Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Như tiếng thông reo

11/08/201321:55(Xem: 10763)
Như tiếng thông reo

HT_Tu_Man


NHƯ TIẾNG THÔNG REO

(Cẩn niệm Đại lão Hòa thượng Thích Từ Mãn)

1. Lặng ngắm dung quang

Được tin Ôn Từ Mãn viên tịch, tôi giật mình, định lên Đà Lạt đảnh lễã kim quan Ôn lần cuối, nhưng vì bận việc kết thúc năm học, tôi không đi được, lòng áy náy hoài. Sáng sớm hôm sau, tôi mở computer, bỗng dưng truy cập Trang Nhà Quảng Đức của thầy Nguyên Tạng bên Úc, thấy hình Ôn hiện trên trang web trong bộ y hậu vàng tươi, mũ Quan Âm thẳng tắp với khuôn mặt hồng hào, tươi đẹp như đang ngồi truyền giới cho bốn chúng quy y. Tôi vừa xúc động vừa sung sướng, ngắm Ôn chăm chăm một hồi, chắp tay xá Ôn ba xá, rồi đi công phu.

2. Ánh mắt cảm thông

Tôi được thiện duyên thân cận với Ôn Từ Mãn non ba tháng. Vốn là thế này:

Khoảng đầu tháng 6 năm 1975, tôi được Viện Hóa Đạo, chủ yếu là Ôn Già Lam, phái lên ở hẳn chùa Linh Sơn Đà Lạt, thay thầy Minh Tuệ, giúp Ôn Từ Mãn về mặt hành chánh. Tôi lễ Phật, lễ Tổ, lễ Thầy, khoác áo lên đường thi hành Phật sự. Khi lên tới Bảo Lộc, xe dừng lại cho hành khách ăn trưa, có hai thầy đến khuyên tôi nên trở về, kẻo phải ngồi co ro trong rừng một đêm lạnh cóng! Chính phủ cách mạng không cho phép tu sĩ thuộc bất cứ tôn giáo nào lên Đà Lạt trong giai đoạn này. Tôi đứng chần chừ một lát, rồi ngỏ lời cảm ơn và tạm biệt hai thầy, dứt khoát lên xe, mặc cho nghịch duyên phía trước. Xe chạy đến trạm gác Nguyễn Tri Phương, gần hồ Xuân Hương, khoảng 5 giờ, thì bị chận lại, kiểm soát, và tất nhiên là tôi buộc phải trở lại Sài Gòn. Tôi xin gặp ban chỉ huy. Anh cán bộ kiểm soát quát: “Lệnh là lệnh!” Tôi lặp lại lời yêu cầu hai, ba lần, và lạ thay, anh ấy dẫn tôi đến gặp vị chỉ huy trưởng tại một chòi lá nơi bìa núi, cách xa chỗ xe đậu khoảng một trăm thước. Thoáng thấy anh chỉ huy trạc tuổi bốn mươi, ngồi sau chiếc bàn gỗ được chắp nối nhiều mảnh trong bộ quân phục sờn rách với khuôn mặt vàng vọt, hơi phù, đượm vẻ lạnh lùng, được bảo vệ bởi hai anh bộ đội cầm súng đứng hai bên, tôi nhìn anh ấy bằng cõi lòng cảm mến chân thành. Hai bên đối thoại hết lý tới tình gần một giờ, khiến tài xế và hai phụ xe cũng phải chạy vô xem sao mà tôi lâu ra thế. Cuối cùng anh ấy đòi xem và giữ giấy tùy thân. Sợ mất thẻ căn cước, tôi đưa thẻ Giảng viên Phật Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh do Hòa thượng, lúc đó là Thượng tọa, Thích Minh Châu ấn ký. Anh ấy xem qua xem lại hình ảnh trong thẻ, đối chiếu với mặt mũi tôi một hồi, rồi nhắc điện thoại gọi ai đó một lát và cho tôi lên Đà Lạt.

3. Thanh sắc quê hương

Tôi bước vào chùa Linh Sơn khoảng hơn 7 giờ tối. Nghe báo tin, Ôn Linh Sơn vội ra phòng khách, vui mừng quýnh quáng, nắm hai tay tôi dặt dặt và nói như mếu: “Răng mà thầy lên đ-ư-ợ-c! Ban đại diện và Phật tử chờ thầy suốt ngày nay. Họ mới về lúc năm giờ đó!” Ôn vừa dứt lời thì có một cán bộ mặc quân phục, đầu đội mũ tai bèo, lưng đeo súng lục, chân đi hơi cà nhắc bước vào vái chào Ôn và tôi. Ôn đứng lên mỉm cười, quay sang tôi giới thiệu: “ Đây là... (xin lỗi quên tên), Phật tử trung kiên của chùa Linh Sơn đó! Nay là cán bộ cao cập đó! Này, Ôn vỗ vai anh ấy, Phật tử trung kiên thì phải giúp thầy Tịnh Minh đây hoàn thành Phật sự nghe!” Tôi chắp tay mỉm cười và rất yên tâm với cách giới thiệu lịch duyệt, thâm thúy của Ôn.

Trong lúc tiếp chuyện, nghe anh ấy nói giọng Bình Định, tôi hỏi:

- Hình như anh là... người Bình Định?

- Con là dân Bình Định, quê ở Đập Đá. Năm 1955, công an cảnh sát chính quyền Ngô Đình Diệm đánh con gãy một giò. Thoát chết, con trốn lên Đà Lạt, và trở thành Phật tử chùa Linh Sơn.

- Thế là chúng ta cùng chung xứ sở. Tôi ở Phù Cát, Cát Tường, cách quê anh khoảng bảy cây số.

- Hân hạnh gặp thầy. Thưa thầy... anh nghiêm giọng, tình hình căng thẳng lắm. Thầy không nên ra khỏi chùa! Thầy nghe rõ?

- A Di Đà Phật. Tôi chắp tay.

Anh ấy đứng lên cúi chào tạm biệt. Tôi và Ôn Linh Sơn tiễn anh ra sân. Khi quay vào, Ôn mỉm cười, nói: “Rứa là Tịnh Minh có tình đồng hương, đồng chí rồi! Yên tâm mà thường trú nghe!” Tôi xoa xoa lưng Ôn, thầm nghĩ: “Địa phương tính (locality) bao giờ cũng chiếm một vị trí đặc biệt trong lòng người xa xứ.”

4. Năng lực chiêu cảm

Và rồi từ đó, cứ vài ba đêm, sau thời công phu sáng, Ôn Linh Sơn đến cửa phòng tôi, bên cạnh phòng Ôn, gõ nhẹ ba tiếng với giọng nói đầy truyền cảm: “Tịnh Minh ơi, qua phòng uống chút trà cho ấm bụng hè!” Trong lúc uống trà, Ôn thường nhìn tôi một lát rồi dịu giọng tâm sự. Tôi biết đó là những lời khuyên dạy chân tình, thống thiết nhưng vì bản tính khiêm tốn, Ôn hành xử từ ái, trịnh trọng như vậy đó. Trong thâm tâm, Ôn sợ tôi còn trẻ, dể bốc đồng trong lúc đối thoại, hay gặp phải chướng duyên. Có lần Ôn xuống giọng buồn buồn, nói:

- “Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy” Tịnh Minh hỷ! Mình phải bình tĩnh và sáng suốt trong mọi tình huống giao tiếp, nhất là phải thể hiện cho được bốn tâm vô lượng: Từ-Bi-Hỷ-Xả. Người tu hành mà chưa phát huy được khả năng ban vui, cứu khổ, tùy thuận và rỗng rang với chúng sanh thì khó mà dung thông hòa hợp với cộng đồng xã hội.

- Bạch Ôn, tôi nói, có lẽ do ánh mắt cảm thông thương mến của con đối với anh chỉ huy trưởng bủng beo gầy gò vì dãi dầu mưa nắng mà con được phép lên đây chăng?

- Có thể lắm! Hy hữu đấy! Hễ mình thương người, thì người thương mình; mình ghét người, thì người ghét mình. “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn” kia mà!

5. Vòng tay rộng mở

Mỗi khi gặp Ôn Từ Mãn, ai ai cũng thấy nụ cười hiền hòa, ánh mắt khiêm ái và cung cách giao tiếp tế nhị của Ôn. Phật tử đến thăm chùa, thăm Ôn, khi ra về, thế nào họ cũng có một món quà nho nhỏ như một trái cam, một quả táo chẳng hạn cho con cháu họ, hoặc cho chính họ. Một hôm, tôi với Ôn vào phòng phát hành, thấy vài ba Phật tử đang mua sách, Ôn hỏi họ thích cuốn nào là Ôn cho cuốn đó với lời khuyên: Văn-Tư-Tu nghe! Rồi Ôn giảng: Đọc kỹ, suy nghĩ, thực hành. Cô bán sách chỉ biết lắc đầu và cười! Khi ra khỏi phòng tôi hỏi:

- Ôn cho sách như vậy thì cô phụ trách làm sao ghi chép?

- Ghi chép chi!... Ôn cười nói. Mình cho họ một cuốn, họ sẽ cho mình năm, mười cuốn.

Còn một đặc điểm hiếm có nữa là hình như Ôn không giữ tiền. Ai cúng đồng nào là Ôn bảo thị giả trao ngay cho Ôn Tánh Hải, phó trụ trì, để lo việc tu bổ chùa chiền và dưỡng dục Tăng chúng. Ôi, vĩ đại thay cho ai thấy tiền không ham! Vì tiền là thứ nhạy cảm nhất trên đời. (Money is the root of all evil). Khái niệm: “Thập phương tăng vật trọng như sơn, bách kiếp thiên sanh miễn bất hoàn(Lễ vật mười phương tợ núi cao, trăm đời ngàn kiếp trả được nào!) xem ra vẫn còn hiệu lực trong dòng ngũ trược ác thế này. Quý thay!

6. Xưng tán Như Lai

Có gần gũi với các bậc tôn túc, đặc biệt là Ôn Từ Mãn, mới thấy được tính nghệ sĩ dễ thương và khôi hài vi tế của các ngài. Lần đầu tiên tôi tham dự khóa lễ với Phật tử, khoảng 9 giờ sáng, tại chánh điện chùa Linh Sơn. Bác Chuy, tuy hình thức cư sĩ, nhưng là chuyên gia đánh mõ trong các thời công phu, lễ lạt. Tôi đứng cạnh Ôn Tánh Hải bên chuông, nhưng Ôn Từ Mãn cứ kéo tôi vào đứng giữa, cạnh Ôn. Khi tôi vừa bước vào thì Ôn vói tay lấy cái tang và dùi tang đưa cho tôi. Sau đó Ôn bắt giọng tán bài “Tâm nhiên...”. Trong lúc tán, tôi vẫn giữ nhịp chân phương. Không ngờ bác Chuy cao hứng hay thúc tôi linh hoạt lên đôi chút, chõi mấy nhịp lắc léo, nhưng tôi vẫn thản nhiên. Để đáp lại thịnh tình, tôi nhồi lên vài bận, và thấy bác lựng khựng ngay: tay mõ vừa thả xuống thì phải giật lên liền, không gõ được, vì nhịp tang tài tử, phá cách. Ôn cười chúm chím theo giai điệu ngân nga, và cũng may là các thầy đều nhắm mắt chứ thấy những cú giật nảy người của bác Chuy thì khó mà nhịn cười. Khóa lễ kết thúc, bác Chuy cứ theo vuốt lưng tôi, nói: “Chao ui... hay chi mà hay dữ vậy thầy!” Còn Ôn thì nhìn bác cười chúm chím, nói: “Chích chòe mà ghẹo bồ nông”. Bác Chuy giờ này có lẽ đang cùng với “chư thượng thiện nhơn câu hội nhất xứ.”

7. Phút giây tạ từ

Khoảng cuối tháng 8 năm 1975, được giấy mời triệu tập giáo viên của Trường Trung Học Bồ Đề Huệ Quang nhằm chuẩn bị cho năm học mới, nếu ai vắng mặt thì coi như tự ý bỏ việc. Sáng sớm hôm đó, tôi vào phòng gặp Ôn, trình bày lý do xin về Sài Gòn. Ôn ngồi im lặng khá lâu, một sự im lặng sâu lắng đến cùng tột. Đoạn Ôn nhìn tôi một lát rồi cất giọng buồn buồn: “Khi nghe Tịnh Minh lên đây, thầy mừng lắm, vì Tịnh Minh là đệ tử của HT. Viên Giác, mà HT. Viên Giác là đệ tử của ngài Bích Không, người đã có công lớn trong việc tôn tạo cảnh quang và lưu tồn bút tích tại ngôi chùa này. Bây chừ ... các thầy trẻ trung minh mẫn lần lượt đi hết, còn mấy ông già lụ khụ ngồi đây biết làm chi!” Ôn đưa tay lau nước mắt, còn tôi thì quỳ mọp dưới chân Ôn khóc sướt mướt, chỉ biết khấu đầu sám hối. Đoạn Ôn đỡ tôi đứng lên, nhẹ nhàng an ủi: “Thôi, làm thầy giáo hay thầy tu cũng là thầy. Khi mô ngán dạy học thì lên đây, thầy vẫn giữ căn phòng giữa đó cho Tịnh Minh.” Trời ơi!... Ôn thương con như vậy đó, còn con, dù chưa giúp được gì nhiều cho Ôn, nhưng ít ra, có con bên cạnh trong thời gian đó, Ôn cũng cảm thấy đỡ đi phần nào lẻ loi trống vắng, Ôn hỷ!



Sài Gòn, ngày 24/2/2008
Tịnh Minh
khấp bái

(Đã đăng trong Tưởng Niệm Trưởng Lão Hòa thượng Thích Từ Mãn – NXB Phương Đông, 2008)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 14945)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 8538)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8624)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10284)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14199)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8379)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 17430)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 12096)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16740)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12973)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]