Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng niệm TT Thích Chánh Lạc

30/07/201319:21(Xem: 14682)
Tưởng niệm TT Thích Chánh Lạc
ChuTonDuc (56)
Thượng Tọa Dịch Giả Thích Chánh Lạc

Cố Thượng tọa THÍCH CHÁNH LẠC, thế danh Nguyễn Ngọc Quang, Pháp danh Nguyên An, hiệu Chánh Lạc, sinh ngày 07 tháng 12 năm Canh Dần (1950) trong một gia đình có truyền thống Phật giáo, tại thôn Khái Đông, xã Hòa Hải huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, nay là phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng, thuộc danh lam thắng tích Ngũ Hành Sơn - Non Nước.

Thân sinh Thầy là cụ ông Nguyễn Thập, Pháp danh Như Bá. Mẹ là cụ bà Phạm Thị Thiệt, Pháp danh Thị Chấn. Cụ đã có nhiều công trong việc sáng lập chùa Quán AÂm. Gia đình thầy có 8 anh em: 4 trai và 4 gái. Thầy là người con thứ ba. Thuở thiếu thời, chú bé Ngọc Quang thường đi theo bố mẹ đến chùa lễ Phật. Nhờ túc duyên tiền định, sớm nhận ra Phật lý nên chú Quang về nhà đòi bố mẹ cho xuất gia vào năm lên 10 tuổi. Chú đầu sư với Cố Hòa thượng Thích Pháp Nhãn, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông, đời thứ 43, là vị khai sơn chùa Quán AÂm. Từ đó, chú Quang sống một cuộc đời hoàn toàn mới trong nếp sống Thiền gia: hành điệu thức khuya dậy sớm, chăm chỉ học hành, công phu bái sám không bỏ sót một thời nào. Chú được thầy Bổn sư và đại chúng quý mến yêu thương.

Đến năm 1965, Bổn sư cho Thầy tham dự khóa Sơ cấp Phật học tại Phật Học Viện Phổ Đà (Đà Nẵng), tiếp đến là Trung cấp Phật học và Thầy được thọ giới Sa-di vào năm 1967.

Năm 1970, sau khi mãn khóa Trung cấp tại Phật Học Viện Phổ Đà, nhận thấy mình có khả năng theo đuổi sự nghiệp học vấn, Thầy xin phép Bổn sư và đại chúng tạm rời bỏ quê hương, tha phương cầu đạo, vào Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa) tiếp tục học Chuyên khoa Phật Học. Vấn đề được tuyển vào Học Viện Trung Phần bấy giờ là điều cực kỳ khó khăn, nhưng với ý chí cương quyết, chăm chỉ học tập nên Thầy được quý Tôn túc thương tưởng cho làm Học Tăng chính thức của Viện.

Năm 1973, Thầy tiếp tục sứ mệnh của người xuất gia, thọ giới Cụ Túc và đắc pháp tại Đại Giới Đàn Phước Huệ Nha Trang, do Hòa thượng Phúc Hộ làm Đàn đầu.

Đến năm 1975, Thầy ở lại Nha Trang tiếp tục tham gia các Phật sự khi Giáo hội cần đến và chấp nhận đời sống tự túc. Thầy lao động rất tích cực với các Xã viên Hợp Tác Xã Bồ Đề và Thầy làm Chủ nhiệm Hợp Tác Xã này một nhiệm kỳ.

Năm 1977, khi hay tin Hòa thượng Bổn sư viên tịch, sau khi về thọ tang, lẽ ra Thầy phải ở lại bản xứ để kế thừa sự nghiệp Bổn sư phó thác, nhưng vì Thầy là người đắc dụng, được Tăng Ni, Phật tử tỉnh Khánh Hòa kính mến, yêu thương, vì thế Thầy trở lại Thành phố Nha Trang tiếp tục đảm nhiệm công tác dịch thuật Kinh tạng và tham gia Đoàn Giảng sư thuộc Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa.

Sau bao năm tháng miệt mài kinh kệ, Thầy rất thành công trong việc dịch thuật và giảng dạy. Theo lời kể, Thầy dịch các Kinh đến đâu thì lấy đó làm tài liệu để diễn giảng. Khi Thầy dịch hoàn thành bộ Kinh Địa Tạng bằng chữ Hoa của Ngài Tuyên Hóa, được in ra rất nhiều để lưu hành trong và ngoài nước. Bấy giờ, Hòa thượng Trí Nghiêm còn sinh tiền, Ôn hết lời khen ngợi Thầy.

Năm 1997, với một tinh thần hăng say dịch thuật, hàng loạt các trang Kinh đang được dịch thuật, thì bỗng nhiên vô thường đến, Thầy ngã bệnh, một cơn bệnh nan y. Di chứng của “Tai biến mạch máu não” đã làm Thầy bị bại đôi chân, đi đứng rất khó khăn. Mặc dù được Tăng Ni và Phật tử tỉnh Khánh Hòa hết lòng chữa chạy, đưa Thầy đi điều trị tại các bệnh viện chuyên khoa lớn từ Nha Trang đến Sài Gòn, nhưng bệnh của Thầy không thuyên giảm, cơn bệnh nan y quái ác không chịu buông tha, Thầy đành phải chấp nhận một thân phận không may của một bệnh nhân mang di chứng của tai biến. Những người thân của Thầy (mẹ, anh, em) và cả Phật tử, sau thời gian nuôi dưỡng và chữa trị cho Thầy tại Nha Trang mà bệnh tình không thuyên giảm, không sao chịu nổi cảnh đớn đau, quằn quại của vị Tỳ-kheo khả kính, nên đã đưa Thầy về lại quê hương, nơi ngôi chùa mà từ đó Thầy xuất gia từ thuở nhỏ để tiếp tục chăm sóc Thầy với tâm niệm “còn nước còn tát” và cầu nguyện cho Thầy thoát được đại bệnh để tiếp tục công việc còn dở dang.

Nhưng than ôi, cuối cùng cũng đến lúc Thầy ra đi với tâm trạng “không có gì để còn, và cũng chẳng có gì để mất” . Thầy hoan hỷ xả báo thân vào lúc 10 giờ ngày 28 tháng 11 năm Canh Thìn (nhằm ngày 23-12-2000).

Thầy trụ thế 51 tuổi đời và 27 hạ lạp.

Từ nay hình bóng Thầy không còn nữa. Hàng thính chúng Phật tử đâu còn nghe được những âm thanh vang vọng của một vị Giảng sư quen thuộc. Mẹ già vẫn còn đó, đang trong tâm trạng thương nhớ người con yêu quý. Anh em họ hàng, bà con quyến thuộc và những người thân của Thầy mất đi một người thân khả kính. Chúng tôi mất đi một Pháp hữu thân thương! Những bản Kinh của Thầy đã dịch, chúng tôi cho nhân bản lưu hành, các Kinh Thầy soạn dịch dở dang, chúng tôi sẽ tiếp tục hoàn tất.

Chúng tôi, toàn thể Tăng Ni và Phật tử luôn mong rằng: Thầy sẽ với thế giới Hoa Tạng và có ngày Thầy sẽ hồi nhập Ta Bà để góp phần cùng chúng tôi trong công cuộc hoằng dương chánh pháp.

Ngưỡng mong Giác linh Thầy thùy từ nhã giám.

Thành kính đảnh lễ Giác linh Thầy.

Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

 

Thich_ChanhLac_2

Bảo tháp của cố Thượng tọa Thích Chánh Lạc tại núi Thổ Sơn

(một ngọn thuộc cụm núi Ngũ hành Sơn) Phường Hòa hải, thành phố Đà nẵng, tỉnh Quảng nam

HỒI KÝ CẢM NIỆM THẦY CHÁNH LẠC

Thầy Chánh Lạclà người tôi quý mến

Kể từ khi Thầy đến đất Nha Trang

Phật Học Viện Hải Đức của Trung phần

Thầy nhập chúng tuy có phần chậm trễ

Nhờ đức tánh cần cù luôn mãi mãi

Thầy thành công hồ hải lớp Chuyên khoa

Trường Cao-đẳng Phật-học được mở ra

Thầy dự học thật là điều hy hữu...

Năm bảy lăm (1975) chuyển sang ngành lao động

Thầy tham gia cùng sống với Tăng Ni

Vai Chủ nhiệm Hợp Tác Xã Bồ Đề

Thầy đảm trách ngành nghề đều hoan hỷ

Năm chín lăm (1995) bước sang môn phiên dịch

Thầy bắt tay với tất cả nhiệt tình

Bộ Địa TạngThầy dịch được nổi danh

Được Hòa thượng Trí Ngiêmngười khen ngợi

Trí Hảitrân trọng lời giới thiệu

Đã lưu hành thế giới khắp Đông Tây

Những kinh khác Thầy dịch hãy còn đây

Chúng tôi sẽ tuần tự xin ấn tống

Thầy giảng pháp với tâm hồn thanh thoát

Khiến người nghe vơi bớt nỗi khổ đau

Tăng Ni sinh lãnh hội được pháp mầu

Đức hỷ xả của Thầy ai cũng mến

Thầy nghỉ dạy, không ai không hỏi đến

Kể từ ngày Thầy thọ bệnh nan y

Nỗi khổ đau trải qua bao tháng ngày

Thuốc Tây, Bắc, ngoại khoa đều thúc thủ

Nay Thầy tịch thật là điều mất mát

Cho Tăng tín đồ Phật giáo Nha Trang

Tôi được tin, xúc động và bàng hoàng

Nhưng lại nghĩ: “Vô thường là thế đó!”

Ôi thôi!

Hương lòng một nén đốt lên

Nguyện cầu Phật Tổ đón nghinh Thầy về...

Nam mô Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật

Pháp huynh: THÍCH ĐỔNG MINH

Nha Trang, ngày 28 tháng 11 năm Canh Thìn (2000).

hoa_hong (3)

KỶ NIỆM NHỎ CỦA CHÚNG MÌNH

(Thầy TRÍ VIÊN viết nhân ngày Chung thất Cố TT THÍCH CHÁNH LẠC)

********

Kính Giác linh Thầy,

Sau khi tiễn Thầy lần cuối, Hòa thượng Thích Đổng Minh về lại Nha Trang, Ôn dạy mấy huynh đệ chúng tôi - những người cùng ở, cùng học với Thầy năm xưa tại Cao-đẳng Chuyên khoa Phật Học Viện Hải Đức - góp nhau cùng phụ lo xây bảo tháp cho Thầy.

Thật cảm động! Không phải quý ôn, quý thầy của chúng mình chỉ lo việc ăn, việc học cho đàn hậu tấn ; khi ốm đau hay mỗi đứa lần lượt ra đi (như thầy Thiện Tu, thầy Huệ An, rồi đến Thầy) quý Ngài đều quan tâm. Dù chúng ta có Bổn sư, nhưng lúc chung sống cùng một mái trường, chia bùi sẻ ngọt với nhau, được vượt qua mọi khó khăn dưới bóng mát của những cây đại thọ tỏa ngát tình thương này, có lẽ Bổn sư của chúng ta khó thấy, khó biết.

Nghĩ lại thời gian qua, mỗi đứa chúng ta đóng một vai tuồng: kẻ đến Nhiễu Giang, người đi Đồng Rọ, người về Đồng Trăng... dồn biết bao kỷ niệm mến thương không sao nói hết!

Nhân ngày Chung thất của Thầy, tôi xin nhắc lại một vài kỷ niệm gọi là tâm sự, cũng xem như đây là quả phẩm hiến cúng Giác linh Thầy. Kính mong Thầy chứng tri và hộ niệm cho chúng tôi, là những người còn lại, được “chân cứng đá mềm” , gắng sức đi trọn con đường mà chúng mình đã chọn, dù có trải qua gập gềnh, chông gai, nhưng quyết chí đi tới, để một ngày nào đó về quê cũ sẽ gặp lại Thầy. Lý tưởng của chúng ta rất rõ, cho nên huynh đệ chúng mình dù không là bà con ruột thịt, máu mủ, nhưng Thầy và tôi cũng như bao huynh đệ khác đã cùng chọn con đường trưởng dưỡng đức hạnh giải thoát. Do vậy, dù gặp bao nhiêu khó khăn, thử thách là bấy nhiêu chất liệu giúp chúng ta xây dựng đức tin vững mạnh hơn đối với lý tưởng.

Kính Giác linh Thầy,

Bây giờ, tôi gợi lên việc này để Giác linh Thầy mỉm cười với chúng tôi. Có lẽ Thầy không quên hình ảnh Hòa thượng Từ Quang (Hòa thượng Đàn đầu) của chúng ta:

Giữa những năm đất nước biến chuyển, nhóm Học Tăng Hải Đức - gồm 15 huynh đệ - đi làm nghĩa vụ lao động tại vùng kinh tế mới Nhiễu Giang, trong đó có Thầy, có tôi. Sau khi hoàn tất nghĩa vụ 15 ngày, rời Nhiễu Giang, anh em chúng ta kéo nhau về chùa Bảo Tịnh (Tuy Hòa) hầu thăm Hòa thượng Phúc Hộ. Sau một thời gian khá lâu, ngài không vào Nha Trang được, vì lúc ấy ngài đã tuổi cao sức yếu, xe cộ đi lại khó khăn, còn huynh đệ mình vắng ngài như thiếu thốn điều gì trong nếp sống của những người tu sĩ trẻ. Trước đó, năm nào cũng vậy, cứ vào 3 tháng kiết hạ an cư, chúng ta đều được trú mát dưới những bóng cây đại thọ của quý ngài. Sau mấy năm liền không gặp được Hòa thượng, ai cũng thấy nhớ nên rất muốn ghé thăm.

Trời chạng vạng tối, chú thị giả thưa: “Bạch Ôn, có quý thầy ở Nha Trang ra” .

Hòa thượng mừng quá, bước thật nhanh xuống cầu thang, đến bậc cuối, nhìn thấy hình ảnh lam lũ, lôi thôi... của chúng tôi trông thật thảm hại, ngài ôm vai từng đứa, giọng ngạc nhiên thốt lên: “Sao lại vầy ?!”

Những giọt nước mắt thương yêu lăn dài theo hai cánh tay yếu ớt của ngài vuốt vai từng người Học Tăng năm cũ, niềm kỳ vọng của người. Lúc ấy, huynh đệ mình ai cũng im lặng cúi đầu... Chợt tôi ngẩng lên, thấy Hòa thượng ôm trọn anh chàng Chơn Trí cao khều, đầu đội chiếc nón lá rách bươm, tay đang cầm cây gậy rừng Nhiễu Giang, quần áo thì chỗ lành chỗ thủng (thấm mồ hôi của nhiều ngày, đang bốc mùi khó chịu). Hòa thượng Phúc Hộ người không cao mấy, nên khi ôm anh chàng Mã Cao (biệt hiệu của Chơn Trí), đầu “hắn” cao hơn đầu Hòa thượng, cao như hòn đá Vọng phu chót vót trên đỉnh đèo Cả, chúng tôi bật cười trong nước mắt. Lúc ấy Chánh Lạc cũng chống gậy Nhiễu Giang, quần ống thấp ống cao, thưa với Hòa thượng:

“Bạch Ôn, Học Tăng là chiến sĩ trên nhiều mặt trận, tụi con không sao đâu! Xin Ôn chớ lo!” .

Tôi bèn xích lại gần Thầy, nói nhỏ: “Vậy mà có những mặt trậnmình chui vào thì rất nguy hiểm đó!”

Thầy cười và nói liền: “Mình tu mà anh, đừng sợ!”

Bản tính vô tư của Thầy lúc nào cũng vậy.

Khi Thầy về Quảng Nam để trị bệnh, tôi không gặp được Thầy cho mãi đến hôm nay.

Sống với nhau nơi Học viện Hải Đức thân thương, hơn 25 năm qua, chúng ta chưa làm được gì đối với sự nghiệp nối gót quý Ôn quý thầy, rồi tự mỗi người rời tổ ấm mà bao kỳ vọng, bao lao nhọc của quý ngài giờ đây như một Na-Lan-Đà thứ hai.

Tôi không đủ duyên để về Quảng Nam tiễn Thầy lần cuối, nhưng thay tôi có thầy Thiện Tu, thầy Huệ An... mãi mãi trong bóng hình của Học viện Hải Đức ngày nào.

Xin Giác linh Thầy hoan hỷ bỏ lỗi cho tôi.

Kính bái Thầy

Thích Trí Viên


hoa_hong (8)


THẦY BỆNH, ĐI THĂM

Ngày hai mươi tháng sáu

Thầy phát ra chứng bệnh

Ốm mất gần mười cân

Tinh thần Thầy bị xuống

Phật tử thấy... xôn xao

Hỏi Thầy sao ốm thế

Thầy cười, nói “không sao”

Tâm đạo Thầy giữ bền

Đi giảng pháp mọi nơi

Qua rồi ba tháng hạ

Về quê Thầy thăm mẹ

Sẵn dịp chữa bệnh luôn

Hành trang xuống phi trường

Tiễn Thầy có năm đứa

Trông Thầy thảm làm sao!

Quần xắn lên ống quyển

Lững thững ra phi trường...

***

Mười lăm ngày xa cách

Thầy trò không gặp nhau

Nghĩ ra một diệu kế

Tổ chức đi thăm Thầy

Thiên Phú thầy Chơn Kiến

Kim Sơn thầy Nguyên Minh

Hợp cùng các Phật tử

Tất cả mười lăm người

Bốn giờ ngày mồng mười

Xe chạy trong đêm tối

Giấc ngủ không được yên

Xe dừng lại bên đường

Trạm xăng có mái hiên

Thầy trò vào đó nghỉ

Một giấc thật ngon lành

Tiếp tục lại lên đường

Bảy giờ đã đến nơi

Thầy trông mong chi lạ

Đứng ngồi không được yên

Gặp nhau tình huynh đệ

Cùng với tình thầy trò

Thật thắm thiết làm sao

Thầy nhìn qua Phật tử

Nước mắt ứa tràn mi

Cả nhà Thầy săn đón

Đoàn đến cũng yên vui.

***

Về quê Thầy chữa bệnh

Phật tử lòng nôn nao

Đạo tình tâm ghi tạc

Hướng về tỉnh Quảng Nam

Hành hương chuyến thăm thầy

Đường xa tuy trắc trở

Gặp gỡ được bao ngày

Bùi ngùi trong tấc dạ

Bất giác giọt lệ rơi

Thầy cười trong nước mắt

Nhìn Phật tử Thầy vui

Mong cho Thầy chóng mạnh

Trở về với chúng con.

***

Ở lại nghỉ một đêm

Thầy trò cùng ra biển

Hàng dương che khuất bóng

Tiếng sóng vỗ rì rào

Ánh trăng treo lơ lững

Chiếu xuống tấm lụa đào

Cát trắng đẹp làm sao

Chứng tỏ lòng cao cả

Thầy ban một thời pháp

Diệu âm Quán Thế AÂm

Phạm âm, Hải triều âm

Thắng bỉ thế gian âm

Thị cố tu thường niệm

Niệm niệm vật sanh nghi...

Giảng qua chú Lăng Nghiêm

Tiếng Thầy nghe thanh thoát.

***

Sớm mai khi thức dậy

Đoàn từ giã lên đường

Thầy ngồi bên cửa sổ

Vẫy tay chào người đi

Ngập ngừng xe lăn bánh

“Mô Phật Thầy, con đi”

Vội vàng ra bên cửa

Ứa lệ Thầy trông theo

Cả đoàn ai cũng khóc

Thương Thầy quá, Thầy ơi!

Nguyên Thông, Nguyên Thức và nhóm Phật tử Nha Trang

hoa_sen (15)

Kinh sách do TT Thích Chánh Lạc dịch

Đạo Phật với thế kỷ 21. Thích Chánh Lạc
Kinh Thiện Sanh Tử. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Đế Thích Sở Văn. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Trung Bổn Khởi. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói kinh Pháp Hải .Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Thất Tri .Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Công Đức thỉnh Phật .Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Tam Ma Nhạ.Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Viên Sanh Thọ .Thích Chánh Lạc dịch
Phật Nói Kinh Dụ nươc Biển. Thích Chánh Lạc dịch
Phật Nói Kinh Thập Nhị Du. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Duyên Bổn Trí. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Vua Văn Đà Kiệt. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội . Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Bổn Tương Ỷ Trí. Thích Chánh Lạc dịch
Phật Nói Kinh Hưng Khởi Hạnh. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Tám Đức của Biển. Thích Chánh Lạc dịch
Hoàng Đạo Quảng Hiển Tam Muội. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh do Tăng Già la Sát lập thành. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Tịch Chí Quả.Thích Chánh Lạc & Thích Tâm Hạnh
Năm Trăm Đệ Tử Nói Về Bổn Khởi. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Phạm Võng 62 Tà Kiến. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Chánh Pháp Đại Tập Hội. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Phật Giáo Hóa Phạm Chí A Bạt .Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Thi Ca La Việt Lạy Sáu Phương. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Do Tăng Già La Sát Tập Thành . Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Luân Vương Thất Bảo. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Đảnh Sanh Vương Cố Sự . Thích Chánh Lạc dịch
Bồ Tát Di Lặc hỏi Phật về Bổn nguyện. Thích Chánh Lạc dịch
Một trăm ngàn bài tụng của Kinh Đại Tập.... Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Tát Bát Đa Tô Lý Du Nại Dã. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân.Thích Chánh Lạc dịch
Văn Thù Sư Lợi nói về Cảnh giới Bất Tư Nghì Của Phật. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh con người do dục sanh. Thích Chánh Lạc & Thích Tâm Hạnh dịch
Kinh Đại Tập Đại Phương Đẳng Bồ tát Niệm Phật Tam Muội. Thích Chánh Lạc dịch
(Xem các bản dịch của TT Chánh Lạc)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 4861)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37217)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6145)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6109)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5753)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8769)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 11860)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]