Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng niệm TT Thích Chánh Lạc

30/07/201319:21(Xem: 14680)
Tưởng niệm TT Thích Chánh Lạc
ChuTonDuc (56)
Thượng Tọa Dịch Giả Thích Chánh Lạc

Cố Thượng tọa THÍCH CHÁNH LẠC, thế danh Nguyễn Ngọc Quang, Pháp danh Nguyên An, hiệu Chánh Lạc, sinh ngày 07 tháng 12 năm Canh Dần (1950) trong một gia đình có truyền thống Phật giáo, tại thôn Khái Đông, xã Hòa Hải huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, nay là phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng, thuộc danh lam thắng tích Ngũ Hành Sơn - Non Nước.

Thân sinh Thầy là cụ ông Nguyễn Thập, Pháp danh Như Bá. Mẹ là cụ bà Phạm Thị Thiệt, Pháp danh Thị Chấn. Cụ đã có nhiều công trong việc sáng lập chùa Quán AÂm. Gia đình thầy có 8 anh em: 4 trai và 4 gái. Thầy là người con thứ ba. Thuở thiếu thời, chú bé Ngọc Quang thường đi theo bố mẹ đến chùa lễ Phật. Nhờ túc duyên tiền định, sớm nhận ra Phật lý nên chú Quang về nhà đòi bố mẹ cho xuất gia vào năm lên 10 tuổi. Chú đầu sư với Cố Hòa thượng Thích Pháp Nhãn, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông, đời thứ 43, là vị khai sơn chùa Quán AÂm. Từ đó, chú Quang sống một cuộc đời hoàn toàn mới trong nếp sống Thiền gia: hành điệu thức khuya dậy sớm, chăm chỉ học hành, công phu bái sám không bỏ sót một thời nào. Chú được thầy Bổn sư và đại chúng quý mến yêu thương.

Đến năm 1965, Bổn sư cho Thầy tham dự khóa Sơ cấp Phật học tại Phật Học Viện Phổ Đà (Đà Nẵng), tiếp đến là Trung cấp Phật học và Thầy được thọ giới Sa-di vào năm 1967.

Năm 1970, sau khi mãn khóa Trung cấp tại Phật Học Viện Phổ Đà, nhận thấy mình có khả năng theo đuổi sự nghiệp học vấn, Thầy xin phép Bổn sư và đại chúng tạm rời bỏ quê hương, tha phương cầu đạo, vào Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa) tiếp tục học Chuyên khoa Phật Học. Vấn đề được tuyển vào Học Viện Trung Phần bấy giờ là điều cực kỳ khó khăn, nhưng với ý chí cương quyết, chăm chỉ học tập nên Thầy được quý Tôn túc thương tưởng cho làm Học Tăng chính thức của Viện.

Năm 1973, Thầy tiếp tục sứ mệnh của người xuất gia, thọ giới Cụ Túc và đắc pháp tại Đại Giới Đàn Phước Huệ Nha Trang, do Hòa thượng Phúc Hộ làm Đàn đầu.

Đến năm 1975, Thầy ở lại Nha Trang tiếp tục tham gia các Phật sự khi Giáo hội cần đến và chấp nhận đời sống tự túc. Thầy lao động rất tích cực với các Xã viên Hợp Tác Xã Bồ Đề và Thầy làm Chủ nhiệm Hợp Tác Xã này một nhiệm kỳ.

Năm 1977, khi hay tin Hòa thượng Bổn sư viên tịch, sau khi về thọ tang, lẽ ra Thầy phải ở lại bản xứ để kế thừa sự nghiệp Bổn sư phó thác, nhưng vì Thầy là người đắc dụng, được Tăng Ni, Phật tử tỉnh Khánh Hòa kính mến, yêu thương, vì thế Thầy trở lại Thành phố Nha Trang tiếp tục đảm nhiệm công tác dịch thuật Kinh tạng và tham gia Đoàn Giảng sư thuộc Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa.

Sau bao năm tháng miệt mài kinh kệ, Thầy rất thành công trong việc dịch thuật và giảng dạy. Theo lời kể, Thầy dịch các Kinh đến đâu thì lấy đó làm tài liệu để diễn giảng. Khi Thầy dịch hoàn thành bộ Kinh Địa Tạng bằng chữ Hoa của Ngài Tuyên Hóa, được in ra rất nhiều để lưu hành trong và ngoài nước. Bấy giờ, Hòa thượng Trí Nghiêm còn sinh tiền, Ôn hết lời khen ngợi Thầy.

Năm 1997, với một tinh thần hăng say dịch thuật, hàng loạt các trang Kinh đang được dịch thuật, thì bỗng nhiên vô thường đến, Thầy ngã bệnh, một cơn bệnh nan y. Di chứng của “Tai biến mạch máu não” đã làm Thầy bị bại đôi chân, đi đứng rất khó khăn. Mặc dù được Tăng Ni và Phật tử tỉnh Khánh Hòa hết lòng chữa chạy, đưa Thầy đi điều trị tại các bệnh viện chuyên khoa lớn từ Nha Trang đến Sài Gòn, nhưng bệnh của Thầy không thuyên giảm, cơn bệnh nan y quái ác không chịu buông tha, Thầy đành phải chấp nhận một thân phận không may của một bệnh nhân mang di chứng của tai biến. Những người thân của Thầy (mẹ, anh, em) và cả Phật tử, sau thời gian nuôi dưỡng và chữa trị cho Thầy tại Nha Trang mà bệnh tình không thuyên giảm, không sao chịu nổi cảnh đớn đau, quằn quại của vị Tỳ-kheo khả kính, nên đã đưa Thầy về lại quê hương, nơi ngôi chùa mà từ đó Thầy xuất gia từ thuở nhỏ để tiếp tục chăm sóc Thầy với tâm niệm “còn nước còn tát” và cầu nguyện cho Thầy thoát được đại bệnh để tiếp tục công việc còn dở dang.

Nhưng than ôi, cuối cùng cũng đến lúc Thầy ra đi với tâm trạng “không có gì để còn, và cũng chẳng có gì để mất” . Thầy hoan hỷ xả báo thân vào lúc 10 giờ ngày 28 tháng 11 năm Canh Thìn (nhằm ngày 23-12-2000).

Thầy trụ thế 51 tuổi đời và 27 hạ lạp.

Từ nay hình bóng Thầy không còn nữa. Hàng thính chúng Phật tử đâu còn nghe được những âm thanh vang vọng của một vị Giảng sư quen thuộc. Mẹ già vẫn còn đó, đang trong tâm trạng thương nhớ người con yêu quý. Anh em họ hàng, bà con quyến thuộc và những người thân của Thầy mất đi một người thân khả kính. Chúng tôi mất đi một Pháp hữu thân thương! Những bản Kinh của Thầy đã dịch, chúng tôi cho nhân bản lưu hành, các Kinh Thầy soạn dịch dở dang, chúng tôi sẽ tiếp tục hoàn tất.

Chúng tôi, toàn thể Tăng Ni và Phật tử luôn mong rằng: Thầy sẽ với thế giới Hoa Tạng và có ngày Thầy sẽ hồi nhập Ta Bà để góp phần cùng chúng tôi trong công cuộc hoằng dương chánh pháp.

Ngưỡng mong Giác linh Thầy thùy từ nhã giám.

Thành kính đảnh lễ Giác linh Thầy.

Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

 

Thich_ChanhLac_2

Bảo tháp của cố Thượng tọa Thích Chánh Lạc tại núi Thổ Sơn

(một ngọn thuộc cụm núi Ngũ hành Sơn) Phường Hòa hải, thành phố Đà nẵng, tỉnh Quảng nam

HỒI KÝ CẢM NIỆM THẦY CHÁNH LẠC

Thầy Chánh Lạclà người tôi quý mến

Kể từ khi Thầy đến đất Nha Trang

Phật Học Viện Hải Đức của Trung phần

Thầy nhập chúng tuy có phần chậm trễ

Nhờ đức tánh cần cù luôn mãi mãi

Thầy thành công hồ hải lớp Chuyên khoa

Trường Cao-đẳng Phật-học được mở ra

Thầy dự học thật là điều hy hữu...

Năm bảy lăm (1975) chuyển sang ngành lao động

Thầy tham gia cùng sống với Tăng Ni

Vai Chủ nhiệm Hợp Tác Xã Bồ Đề

Thầy đảm trách ngành nghề đều hoan hỷ

Năm chín lăm (1995) bước sang môn phiên dịch

Thầy bắt tay với tất cả nhiệt tình

Bộ Địa TạngThầy dịch được nổi danh

Được Hòa thượng Trí Ngiêmngười khen ngợi

Trí Hảitrân trọng lời giới thiệu

Đã lưu hành thế giới khắp Đông Tây

Những kinh khác Thầy dịch hãy còn đây

Chúng tôi sẽ tuần tự xin ấn tống

Thầy giảng pháp với tâm hồn thanh thoát

Khiến người nghe vơi bớt nỗi khổ đau

Tăng Ni sinh lãnh hội được pháp mầu

Đức hỷ xả của Thầy ai cũng mến

Thầy nghỉ dạy, không ai không hỏi đến

Kể từ ngày Thầy thọ bệnh nan y

Nỗi khổ đau trải qua bao tháng ngày

Thuốc Tây, Bắc, ngoại khoa đều thúc thủ

Nay Thầy tịch thật là điều mất mát

Cho Tăng tín đồ Phật giáo Nha Trang

Tôi được tin, xúc động và bàng hoàng

Nhưng lại nghĩ: “Vô thường là thế đó!”

Ôi thôi!

Hương lòng một nén đốt lên

Nguyện cầu Phật Tổ đón nghinh Thầy về...

Nam mô Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật

Pháp huynh: THÍCH ĐỔNG MINH

Nha Trang, ngày 28 tháng 11 năm Canh Thìn (2000).

hoa_hong (3)

KỶ NIỆM NHỎ CỦA CHÚNG MÌNH

(Thầy TRÍ VIÊN viết nhân ngày Chung thất Cố TT THÍCH CHÁNH LẠC)

********

Kính Giác linh Thầy,

Sau khi tiễn Thầy lần cuối, Hòa thượng Thích Đổng Minh về lại Nha Trang, Ôn dạy mấy huynh đệ chúng tôi - những người cùng ở, cùng học với Thầy năm xưa tại Cao-đẳng Chuyên khoa Phật Học Viện Hải Đức - góp nhau cùng phụ lo xây bảo tháp cho Thầy.

Thật cảm động! Không phải quý ôn, quý thầy của chúng mình chỉ lo việc ăn, việc học cho đàn hậu tấn ; khi ốm đau hay mỗi đứa lần lượt ra đi (như thầy Thiện Tu, thầy Huệ An, rồi đến Thầy) quý Ngài đều quan tâm. Dù chúng ta có Bổn sư, nhưng lúc chung sống cùng một mái trường, chia bùi sẻ ngọt với nhau, được vượt qua mọi khó khăn dưới bóng mát của những cây đại thọ tỏa ngát tình thương này, có lẽ Bổn sư của chúng ta khó thấy, khó biết.

Nghĩ lại thời gian qua, mỗi đứa chúng ta đóng một vai tuồng: kẻ đến Nhiễu Giang, người đi Đồng Rọ, người về Đồng Trăng... dồn biết bao kỷ niệm mến thương không sao nói hết!

Nhân ngày Chung thất của Thầy, tôi xin nhắc lại một vài kỷ niệm gọi là tâm sự, cũng xem như đây là quả phẩm hiến cúng Giác linh Thầy. Kính mong Thầy chứng tri và hộ niệm cho chúng tôi, là những người còn lại, được “chân cứng đá mềm” , gắng sức đi trọn con đường mà chúng mình đã chọn, dù có trải qua gập gềnh, chông gai, nhưng quyết chí đi tới, để một ngày nào đó về quê cũ sẽ gặp lại Thầy. Lý tưởng của chúng ta rất rõ, cho nên huynh đệ chúng mình dù không là bà con ruột thịt, máu mủ, nhưng Thầy và tôi cũng như bao huynh đệ khác đã cùng chọn con đường trưởng dưỡng đức hạnh giải thoát. Do vậy, dù gặp bao nhiêu khó khăn, thử thách là bấy nhiêu chất liệu giúp chúng ta xây dựng đức tin vững mạnh hơn đối với lý tưởng.

Kính Giác linh Thầy,

Bây giờ, tôi gợi lên việc này để Giác linh Thầy mỉm cười với chúng tôi. Có lẽ Thầy không quên hình ảnh Hòa thượng Từ Quang (Hòa thượng Đàn đầu) của chúng ta:

Giữa những năm đất nước biến chuyển, nhóm Học Tăng Hải Đức - gồm 15 huynh đệ - đi làm nghĩa vụ lao động tại vùng kinh tế mới Nhiễu Giang, trong đó có Thầy, có tôi. Sau khi hoàn tất nghĩa vụ 15 ngày, rời Nhiễu Giang, anh em chúng ta kéo nhau về chùa Bảo Tịnh (Tuy Hòa) hầu thăm Hòa thượng Phúc Hộ. Sau một thời gian khá lâu, ngài không vào Nha Trang được, vì lúc ấy ngài đã tuổi cao sức yếu, xe cộ đi lại khó khăn, còn huynh đệ mình vắng ngài như thiếu thốn điều gì trong nếp sống của những người tu sĩ trẻ. Trước đó, năm nào cũng vậy, cứ vào 3 tháng kiết hạ an cư, chúng ta đều được trú mát dưới những bóng cây đại thọ của quý ngài. Sau mấy năm liền không gặp được Hòa thượng, ai cũng thấy nhớ nên rất muốn ghé thăm.

Trời chạng vạng tối, chú thị giả thưa: “Bạch Ôn, có quý thầy ở Nha Trang ra” .

Hòa thượng mừng quá, bước thật nhanh xuống cầu thang, đến bậc cuối, nhìn thấy hình ảnh lam lũ, lôi thôi... của chúng tôi trông thật thảm hại, ngài ôm vai từng đứa, giọng ngạc nhiên thốt lên: “Sao lại vầy ?!”

Những giọt nước mắt thương yêu lăn dài theo hai cánh tay yếu ớt của ngài vuốt vai từng người Học Tăng năm cũ, niềm kỳ vọng của người. Lúc ấy, huynh đệ mình ai cũng im lặng cúi đầu... Chợt tôi ngẩng lên, thấy Hòa thượng ôm trọn anh chàng Chơn Trí cao khều, đầu đội chiếc nón lá rách bươm, tay đang cầm cây gậy rừng Nhiễu Giang, quần áo thì chỗ lành chỗ thủng (thấm mồ hôi của nhiều ngày, đang bốc mùi khó chịu). Hòa thượng Phúc Hộ người không cao mấy, nên khi ôm anh chàng Mã Cao (biệt hiệu của Chơn Trí), đầu “hắn” cao hơn đầu Hòa thượng, cao như hòn đá Vọng phu chót vót trên đỉnh đèo Cả, chúng tôi bật cười trong nước mắt. Lúc ấy Chánh Lạc cũng chống gậy Nhiễu Giang, quần ống thấp ống cao, thưa với Hòa thượng:

“Bạch Ôn, Học Tăng là chiến sĩ trên nhiều mặt trận, tụi con không sao đâu! Xin Ôn chớ lo!” .

Tôi bèn xích lại gần Thầy, nói nhỏ: “Vậy mà có những mặt trậnmình chui vào thì rất nguy hiểm đó!”

Thầy cười và nói liền: “Mình tu mà anh, đừng sợ!”

Bản tính vô tư của Thầy lúc nào cũng vậy.

Khi Thầy về Quảng Nam để trị bệnh, tôi không gặp được Thầy cho mãi đến hôm nay.

Sống với nhau nơi Học viện Hải Đức thân thương, hơn 25 năm qua, chúng ta chưa làm được gì đối với sự nghiệp nối gót quý Ôn quý thầy, rồi tự mỗi người rời tổ ấm mà bao kỳ vọng, bao lao nhọc của quý ngài giờ đây như một Na-Lan-Đà thứ hai.

Tôi không đủ duyên để về Quảng Nam tiễn Thầy lần cuối, nhưng thay tôi có thầy Thiện Tu, thầy Huệ An... mãi mãi trong bóng hình của Học viện Hải Đức ngày nào.

Xin Giác linh Thầy hoan hỷ bỏ lỗi cho tôi.

Kính bái Thầy

Thích Trí Viên


hoa_hong (8)


THẦY BỆNH, ĐI THĂM

Ngày hai mươi tháng sáu

Thầy phát ra chứng bệnh

Ốm mất gần mười cân

Tinh thần Thầy bị xuống

Phật tử thấy... xôn xao

Hỏi Thầy sao ốm thế

Thầy cười, nói “không sao”

Tâm đạo Thầy giữ bền

Đi giảng pháp mọi nơi

Qua rồi ba tháng hạ

Về quê Thầy thăm mẹ

Sẵn dịp chữa bệnh luôn

Hành trang xuống phi trường

Tiễn Thầy có năm đứa

Trông Thầy thảm làm sao!

Quần xắn lên ống quyển

Lững thững ra phi trường...

***

Mười lăm ngày xa cách

Thầy trò không gặp nhau

Nghĩ ra một diệu kế

Tổ chức đi thăm Thầy

Thiên Phú thầy Chơn Kiến

Kim Sơn thầy Nguyên Minh

Hợp cùng các Phật tử

Tất cả mười lăm người

Bốn giờ ngày mồng mười

Xe chạy trong đêm tối

Giấc ngủ không được yên

Xe dừng lại bên đường

Trạm xăng có mái hiên

Thầy trò vào đó nghỉ

Một giấc thật ngon lành

Tiếp tục lại lên đường

Bảy giờ đã đến nơi

Thầy trông mong chi lạ

Đứng ngồi không được yên

Gặp nhau tình huynh đệ

Cùng với tình thầy trò

Thật thắm thiết làm sao

Thầy nhìn qua Phật tử

Nước mắt ứa tràn mi

Cả nhà Thầy săn đón

Đoàn đến cũng yên vui.

***

Về quê Thầy chữa bệnh

Phật tử lòng nôn nao

Đạo tình tâm ghi tạc

Hướng về tỉnh Quảng Nam

Hành hương chuyến thăm thầy

Đường xa tuy trắc trở

Gặp gỡ được bao ngày

Bùi ngùi trong tấc dạ

Bất giác giọt lệ rơi

Thầy cười trong nước mắt

Nhìn Phật tử Thầy vui

Mong cho Thầy chóng mạnh

Trở về với chúng con.

***

Ở lại nghỉ một đêm

Thầy trò cùng ra biển

Hàng dương che khuất bóng

Tiếng sóng vỗ rì rào

Ánh trăng treo lơ lững

Chiếu xuống tấm lụa đào

Cát trắng đẹp làm sao

Chứng tỏ lòng cao cả

Thầy ban một thời pháp

Diệu âm Quán Thế AÂm

Phạm âm, Hải triều âm

Thắng bỉ thế gian âm

Thị cố tu thường niệm

Niệm niệm vật sanh nghi...

Giảng qua chú Lăng Nghiêm

Tiếng Thầy nghe thanh thoát.

***

Sớm mai khi thức dậy

Đoàn từ giã lên đường

Thầy ngồi bên cửa sổ

Vẫy tay chào người đi

Ngập ngừng xe lăn bánh

“Mô Phật Thầy, con đi”

Vội vàng ra bên cửa

Ứa lệ Thầy trông theo

Cả đoàn ai cũng khóc

Thương Thầy quá, Thầy ơi!

Nguyên Thông, Nguyên Thức và nhóm Phật tử Nha Trang

hoa_sen (15)

Kinh sách do TT Thích Chánh Lạc dịch

Đạo Phật với thế kỷ 21. Thích Chánh Lạc
Kinh Thiện Sanh Tử. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Đế Thích Sở Văn. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Trung Bổn Khởi. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói kinh Pháp Hải .Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Thất Tri .Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Công Đức thỉnh Phật .Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Tam Ma Nhạ.Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Viên Sanh Thọ .Thích Chánh Lạc dịch
Phật Nói Kinh Dụ nươc Biển. Thích Chánh Lạc dịch
Phật Nói Kinh Thập Nhị Du. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Duyên Bổn Trí. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Vua Văn Đà Kiệt. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội . Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Bổn Tương Ỷ Trí. Thích Chánh Lạc dịch
Phật Nói Kinh Hưng Khởi Hạnh. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Tám Đức của Biển. Thích Chánh Lạc dịch
Hoàng Đạo Quảng Hiển Tam Muội. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh do Tăng Già la Sát lập thành. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Tịch Chí Quả.Thích Chánh Lạc & Thích Tâm Hạnh
Năm Trăm Đệ Tử Nói Về Bổn Khởi. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Phạm Võng 62 Tà Kiến. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Chánh Pháp Đại Tập Hội. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Phật Giáo Hóa Phạm Chí A Bạt .Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Thi Ca La Việt Lạy Sáu Phương. Thích Chánh Lạc dịch
Kinh Do Tăng Già La Sát Tập Thành . Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Luân Vương Thất Bảo. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Đảnh Sanh Vương Cố Sự . Thích Chánh Lạc dịch
Bồ Tát Di Lặc hỏi Phật về Bổn nguyện. Thích Chánh Lạc dịch
Một trăm ngàn bài tụng của Kinh Đại Tập.... Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Tát Bát Đa Tô Lý Du Nại Dã. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân.Thích Chánh Lạc dịch
Văn Thù Sư Lợi nói về Cảnh giới Bất Tư Nghì Của Phật. Thích Chánh Lạc dịch
Phật nói Kinh con người do dục sanh. Thích Chánh Lạc & Thích Tâm Hạnh dịch
Kinh Đại Tập Đại Phương Đẳng Bồ tát Niệm Phật Tam Muội. Thích Chánh Lạc dịch
(Xem các bản dịch của TT Chánh Lạc)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/07/2014(Xem: 14481)
An Cư Kiết Đông đã qua, Nhưng lời thuyết pháp đậm đà vẫn vương Thích Ca tái thế tình thương Thầy về giảng Pháp con nương nơi Thầy
27/07/2014(Xem: 7844)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh. Tình thương yêu của Ôn luôn tưới tẩm và lan tỏa trong toàn thân con mỗi ngày khi được sống bên Ôn.
24/07/2014(Xem: 11994)
Mới đó mà một năm sắp trôi qua và hai năm cũng sẽ đến ngày viên tịch của cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm, Viện Chủ chùa Khánh Anh kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu. Giáo Hội Âu Châu mong mỏi thực hiện một Kỷ Yếu nhân lễ Đại Tường (2015) nên đã giao phần gom góp và biên tập bài vở cũng như trang trí quyển Kỷ Yếu nầy cho Hòa Thượng Thích Như Điển (Đức), Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu (Hoa Kỳ) và Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng (Úc Châu) thực hiện. Lâu nay chúng ta đã có một số bài tiêu biểu đã được đăng trên các trang nhà như : quangduc.com, viengiac.de, hoavouu.com và một số trang nhà khác.
22/07/2014(Xem: 32107)
Ngôi tu viện Phật giáo vùng Tây Bắc của tiểu bang Victoria được Thượng tọa Thích Tâm Phương khai sơn từ năm 1990. Ban đầu tu viện tọa lạc ở vùng Broadmeadows. Đến năm 1995, tu viện vận động mua lại ngôi trường tiểu học Fawkner cũ có diện tích 8.000 m2 và xây dựng thành ngôi phạm vũ trang nghiêm mang tên Bồ tát Thích Quảng Đức từ năm 1997 đến năm 2003. Công trình xây dựng do kiến trúc sư Nguyễn Kiển Thành thiết kế, kiến lập theo kiểu chữ “Công” mang dáng dấp kiến trúc cổ kính Á Đông. Đại lễ khánh thành được tu viện tổ chức trọng thể vào các ngày 10, 11 và 12-10-2003. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm thờ tôn tượng đồng đức Phật Thích Ca thiền định. Tượng cao 2,50m, nặng khoảng 1,5 tấn. Phía trước và hai bên, tu viện đặt thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát, Hộ Pháp Già Lam. Đến năm 2008, tu viện xây Tăng xá và Bảo tháp Tứ Ân. Bảo tháp 4 tầng, cao 14m, rộng 5m, trên nóc tôn trí tượng đức Phật A Di Đà cao 1,2m. Trong bảo tháp tôn thờ Xá Lợi Phật, tượng chư Phật, Bồ tát và linh cốt của Phật tử q
12/07/2014(Xem: 8557)
Thời gian mãi trôi qua, không gian chưa bao giờ ngừng sự chuyển động và con người cũng phải già thêm, vì không thể cưỡng lại định luật vô thường vốn tự có. Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế Ngài hay dạy cho các vị đệ tử rằng: Phàm những gì có hình tướng thì tất cả đều bị chi phối bởi sự vô thường, mà đã vô thường thì nguyên nhân chính của nó là khổ, nhưng thật ra cái khổ nó cũng không có thật tướng, vì bản thể của mọi hiện tượng đều là không. Sở dĩ có, vì có ái và thủ chấp hữu, nên mới có những tướng sanh diệt. Khi nào không duyên vào bất cứ một hiện tượng hay hình thức nào bên ngoài, thì lúc ấy chúng ta sẽ chứng được thực tướng của Niết Bàn vô sanh vô diệt.
05/07/2014(Xem: 6993)
Hôm nay, dẫu Ni trưởng Thích nữ Viên Minh duyên trần đã mãn nhưng tâm hạnh và sự nghiệp tu tập của Người mãi là kho tàng vô giá, là ngọn Hải đăng cho Ni chúng Thừa Thiên Huế nói riêng và cả nước nói chung đồng tôn ngưỡng hướng về. Ni trưởng thế danh Nguyễn Thị Khiêm Tốn, húy thượng Tâm hạ Huệ, tự Viên Minh, hiệu Trí Uyên, sinh năm Giáp Dần (1914) tại thôn Động Giả, xã Đỗ Động, huyện Thanh Oai, Hà Nội (tức tỉnh Hà Đông).
01/07/2014(Xem: 9334)
Ni sư Thích nữ Hải Triều Hạnh, Pháp Hiệu Hoằng Hạnh, Tự Liễu Như, thế danh Trần Duy Hạnh. Sinh năm Ất Mùi 1955 tại Gia Định sài gòn. Ni Sư sinh trưởng trong 1 gia đình gia giáo. Thân phụ là cụ ông Trần Duy Ninh PD: Hoằng Ninh, vốn là em kết nghĩa của Thầy Hải Triều Âm là một y sĩ cùng làm chung một sở y tế với Thầy, khi Thầy chưa xuất gia cụ ông luôn theo Thầy làm trưởng đoàn công tác từ thiện xã hội và Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn thị Hoa Truật, pháp danh Mỹ Dung, sau Hòa Thượng Pháp Chủ đổi tên là Cát Tường vốn là vị hộ pháp thân tín trong thời gian Thầy xuất gia, nhập thất và suốt chặng đường hoằng Pháp của Thầy.
30/06/2014(Xem: 11856)
Video: Hòa Thượng Thích Huyền Quang Một Đời Thao Thức
19/06/2014(Xem: 14381)
Hoài bảo một "CÁI MỘNG" trên 25 năm mới hoàn toàn thực hiện Trong lúc du học ở Xuân Kinh(1938), đến mùa hè năm 1941, tôi được dịp may dự thính lớp Giáo Lý của Đoàn Thanh Niên Dục Đức, trong một tháng (mỗi đêm giảng 2 giờ) , do Bác sĩ Lê Đình Thám đảm trách (lớp này hiện nay còn Thượng Toạ Thích Minh Châu và Đạo hữu Võ Đình Cường v.v...) Tôi thích thú quá! Vì thấy bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình bày một triết lý cao siêu của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á làm cho người nghe rất thích thú vì hiểu được rằng triết lý cao siêu của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng rành mạch của Tây phương. Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]