Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Bài giảng Trần Nhân Tông

21/09/201214:40(Xem: 6212)
04. Bài giảng Trần Nhân Tông

lotus_50TRẦN NHÂN TÔNG

CON NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM
Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 1999

 

PHẦN II
TÁC PHẨM TRẦN NHÂN TÔNG

BÀI GIẢNG TRẦN NHÂN TÔNG
BÀI GIẢNG TẠI CHÙA SÙNG NGHIÊM

“Lúc đầu khai đường, Thượng hoàng lên tòa giảng, niêm hương báo ân xong, bèn đến tòa giảng. Thượng thủ đánh bảng v.v... xin mời Điều Ngự. Bèn nói: ‘Đức Thích Ca Văn Phật vì một việc lớn mà xuất hiện ở đời, 49 năm, nhúc nhích đôi mép môi, mà chưa từng nói một chữ. Ta nay vì các người mà lên tòa giảng này, thì nói cái gì?’ Rồi Thượng hoàng ngồi xuống giường thiền. một chốc, bèn nói:
Đỗ quyên rền rỉ, trăng ngày sáng
Đừng để tầm thường xuân luống qua
Lại đánh xuống một cái:
- Chẳng có gì cả, hãy đi ra đi, đi ra đi.

Một vị tăng hỏi:
- Thế nào là Phật?

Đáp:
- Hiểu theo như trước là chẳng phải.

Lại tiến lên hỏi:
- Thế nào là Pháp?

Đáp:
- Hiểu theo lối trước là chẳng phải.

Lại đứng lên hỏi:
- Rốt ráo là thế nào?.

Đáp:
Tám chữ mở toang trăn trối hết
Chẳng còn gì nữa để trình ông.
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là Tăng?

Đáp:
- Hiểu theo lối trước lại chẳng phải.

Lại đứng lên hỏi:
- Rốt ráo là như sao?

Đáp:
Tám chữ mở toang trăn trối hết
Chẳng còn gì nữa để trình ông.
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là một việc hướng thượng?

Đáp:
- Đứng chống đầu gậy chọc trời trăng.

Lại đứng lên hỏi:
- Dùng công án cũ để làm gì?

Đáp:
- Mỗi lần nêu ra mỗi lần mới.

Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là giáo ngoại biệt truyền?

Đáp:
- Ểnh ương nhảy không ra khỏi đấu.
Lại đứng lên hỏi:
- Hiện ra rồi chìm mất là thế nào?

Đáp:
- Còn tùy còn tùy bước ếch cát bùn vương.

Tiến lên hỏi:
- Thế còn nhảy không ra?

Điều Ngự bèn lên tiếng:
- Tên mù kia thấy cái gì?

Bèn đứng lên nói:
- Đại tôn đức lừa người để làm gì?

Điều Ngự bèn thở dài. Vị tăng ngẫm nghĩ. Điều Ngự liền đánh. Vị tăng lại định đi ra hỏi. Điều Ngự liền hét. Vị tăng cũng hét.
Điều Ngự nói:
- Lão tăng bị ngươi hét một tiếng, thì hét hai tiếng rốt ráo thế nào? Nói mau, nói mau.

Tăng ngẫm nghĩ.
Điều Ngự lại hét một tiếng, nói:
- Con hồ tinh hoang kia vừa mới đến liến thoắng, nay ở chỗ nào rồi?

Tăng lạy và rút lui.

Hỏi:
- Đại đức siêng năng khó nhọc tu hành, lâu trải năm tháng, đối với sáu thần thông của Phật, nay chứng được thần thông nào?

Đáp:
- Cũng được sáu thần thông.

Lại đứng lên hỏi:
- Năm thần thông thì hãy để đó, còn tha tâm thông thì thế nào?

Đáp:
- Đất nước chỗ ông có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai biết hết, Như Lai thấy hết.

Tăng đưa thẳng nắm tay lên, nói:
- Đã có thể biết hết, thấy hết, thì có biết cái này có vật gì không?

Đáp:
Như có như không
Chẳng không chẳng sắc

Hỏi:
- Xưa có tăng hỏi hòa thượng Lang Da rằng: Đã là “thanh tịnh bản nhiên”sao bỗng chốc sinh ra núi sông đất lớn? Ý chỉ thế nào?

Đáp:
- Rất giống thuyền câu ra bể?

Lại đứng lên hỏi:
-Thế là ý nghĩa gì?

Đáp:
Khói sóng ai hay tránh.
Riêng có việc khéo bàn
Hỏi:
- Thế nào là gia phong của Phật quá khứ?

Đáp:
Rừng vườn vắng vẻ không người quản,
Mận trắng đào hồng tự nở hoa
Hỏi:
- Thế nào là gia phong của Phật hiện tại?

Đáp:
Bạch thủy gia phong mê én sớm,
Đào thắm vườn tiên say gió xuân.
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là gia phong của Phật vị lai?

Đáp:
Bãi biển chờ triều trời đợi nguyệt,
Thôn chài nghe sáo khách mong nhà.
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là gia phong của hòa thượng?

Đáp:
Áo rách ôm mây, mai húp cháo,
Bình xưa rót nguyệt, tối chưng trà.
Hỏi:
- Linh Vân giác ngộ khi đào nở hoa là thế nào?

Đáp:
Tự búp tự nở theo thời tiết,
Hỏi tới Đông quân thảy chẳng hay
Lại đứng lên hỏi:
- Giết người không chớp mắt là thế nào?

Đáp:
- Toàn thân là mật.

Hỏi:
- Bậc đại tu hành có còn rơi vào vòng nhân quả nữa không?

Đáp:
Miệng tựa máu bồn chê Phật tổ,
Răng như cây kiếm thọc thiền lâm.
Một mai chết xuống A tỳ ngục,
Cười ngất nam mô Quán Thế Âm.
Hỏi:
Cò trắng xuống đồng, nghìn điểm tuyết,
Oanh vàng trong khóm, một nhành hoa.
là thế nào?
Đáp:
- Lầm rồi.

Lại đứng lên hỏi:
- Bậc đại tôn đức nghĩ sao?

Đáp:
Cò trắng xuống đồng, nghìn điểm tuyết,
Oanh vàng trong khóm, một nhành hoa.
Lại đứng lên hỏi:
- Đó là lời của tôi.

Đáp:
Nếu biết thần tiên lò lửa thuật
Viên đan nguyên ấy tử châu sa
Hỏi:
- Thế nào là pháp thân thanh tịnh?

Đáp:
Đục vàng rớt trúng phân sư tử
Sắt núi Côn Lôn chim chá cô
Lại hỏi:
- Học nhân không hiểu.

Đáp:
Không được thương Hồ biết rành thách giá
Đáng cười kẻ chợ khổ lường nhau
Lại đứng lên hỏi:
- Báo thân tròn đầy là thế nào?

Đáp:
Cánh bằng gió đứng cao bay mãi
Ngọc Lệ trơn tru sóng biển trong
Tăng lạy vái.
Điều Ngự nói:
Nguyên lai đầy đủ muôn công dụng
Thiên lệch vì ngươi chẳng được nên
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là ngàn trăm ức hóa thân?

Đáp:
Mây mù kéo bắt lên trời lượn
Thước nước như xưa cửa ngực vây
Lại đứng lên hỏi:
- Như thế?

Điều Ngự nói:
Dưới núi nhóm mây cười chết kẻ
Bốn bề hỗn độn sắt ăn xong.
Tăng lạy vái rút lui.

Hỏi:
- Bàn huyền nói diệu, đem cổ luận kim, thảy đều nhờ vào ngôn ngữ. Chẳng dính ngôn ngữ một câu làm sao mà nói ra đây?

Đáp:
Gió xuân lất phất ngàn hoa nở
Gãy mất càng xe một tiếng thôi
Tăng ngẫm nghĩ, mở miệng.
Điều Ngự lại nói:
Chim kêu rỉ máu đâu dùng chỗ
Như cũ mây chiều vắt núi tây.
Lại đứng lên hỏi:
- Muôn dặm mây nhóm là thế nào?

Đáp:
- Mưa mênh mông.

Lại đứng lên hỏi:
- Muôn dặm mây phủ là thế nào?

Đáp:
- Sáng rõ

Lại đứng lên hỏi:
- Rốt ráo là thế nào?

Đáp:
- Chớ nhúc nhích. Nhúc nhích thì ba mươi gậy.

Hỏi:
- Thế nào là mặt mũi xưa nay?

Điều Ngự chặp lâu, nói:
- Hiểu không?

Đáp:
- Không hiểu.

Điều Ngự liền đánh.
Hỏi:
-Thế nào là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp?

Đáp:
Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh tìm ta
Người ấy hành đạo tà
Chẳng thể thấy Như Lai.
Hỏi:
- Thế nào là Phật?

Đáp:
- Cám trong cối

Hỏi:
- Thế nào là ý tây lai của tổ sư?

Đáp:
- Bánh vẽ.

Hỏi:
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?

Đáp:
- Cùng hầm không đất khác.

Hỏi:
- Xưa có tăng hỏi Triệu Châu con chó có tính Phật không, Châu bảo không có. Ý chỉ thế nào?

Đáp:
Vị muối trong nước
Keo xanh trong màu
Hỏi:
Câu có câu không
Như dây bám cây
Thì thế nào?
Điều Ngự bèn nói:
Câu có câu không,
Dây khô cây đổ.
Mấy vị thầy tu,
Dập đầu trán vỡ.

Câu có câu không,
Gió vàng thể lộ.
Vô số cát sông,
Kiếm đâm dao bổ.

Câu có câu không
Lập chỉ lập tông.
Dùi rùa đập ngói,
Trèo núi lội sông.

Câu có câu không
Chẳng có chẳng không,
Khắc thuyền tìm gươm,
Bản đồ kiếm ngựa.

Câu có câu không,
Đắp đỗi hay không.
Nón tuyết giày bông
Ôm cây đợi thỏ

Câu có câu không,
Từ nay từ xưa.
Quên trăng giữ ngón.
Chết đuối trên bờ.

Câu có câu không,
Như vậy như vậy,
Tám chữ mở toang,
Không còn mũi rẫy

Câu có câu không,
Ngó phải ngó trái.
Ráo riết hùa theo,
Ồn ào tranh cãi.

Câu có câu không,
Rầu rầu rĩ rĩ.
Cắt đứt sắn bìm,
Đó đây vui vẻ.
Bèn xuống tòa.

BÀI GIẢNG TẠI VIỆN KỲ LÂN
Ngày mồng 9 tháng giêng nhuận năm Bính Ngọ (1306), Trúc Lâm đại tôn giả đến viện Kỳ Lân khai đường, chỉ pháp tòa nói:
- Tòa này là giường mây khúc lục, là tòa báu kim nghê. Ngồi đây đoán định lời lẽ Phật tổ thì thật rất chật hẹp.
Bèn niêm hương:
- Một nén hương này, khói lành thơm phức, khí tốt bay lên, ngưng đọng năm phần pháp thân, biến khắp mười phương lễ diệu. Sức nóng lò hương dâng lên mười phương ban phúc, chín miếu ứng thiêng, tuổi vua lâu bền, ngôi trời vững chãi.
Một nén hương này, trong sạch rễ mầm, hiếm lạ giống tính, không mượn sức bón vun, toàn nhờ xông thấy biết. Sức nóng lò hương vâng xin mưa thuận gió hòa, nước thái dân yên, trời Phật thêm sáng, xe pháp thường quay.
Một nén hương này, nướng cũng không chín, đốt cũng không cháy, gõ vào không mở, kéo lại không đến, ngó trộm thì con ngươi khô kiệt, ngửi thử thì cửa não téc đôi. Sức nóng lò hương dâng lên Vô Nhị thượng nhân, Tuệ Trung đại sĩ, mưa pháp ơn nhuần, cháu con đều gội.
Thượng hoàng đến tòa giảng, khi thăng đường, thượng thủ đánh bảng.
Vân vân.
Sư nói:
- Đại chúng, nếu nhắm vào chân lý thứ nhất mà nói, động niệm tức sai, mở miệng là bậy, thì làm sao hiểu chân lý, làm sao hiểu quán tưởng? Hôm nay, hãy căn cứ vào chân lý thứ hai mà nói, thế có được không nào?
Rồi Sư ngoảnh nhìn tả hữu, nói:
- Ở đây chẳng có người nào có đủ được con mắt to lớn hay sao. Nếu có, hai đóa lông mày không mất một mảy may. Nếu không, bần đạo không khỏi cái miệng lầm rầm, đưa ra những lời thừa rách nát sáo mòn.

Nhưng vì các người, xin lấy ra một phần hổ lốt. Hãy lắng nghe, lắng nghe.

Này xem, đạo lớn trống rộng, đâu buộc đâu ràng, bản tính sáng trong, chẳng lành chẳng dữ. Bởi do chọn lựa, lắm ngả sinh ngang, một giây thoáng mờ, dễ thành trời vực. Thánh phàm cùng chung một lối, phải trái há được phân ranh. Nên biết tội phước vốn không, nhân quả rốt ráo chẳng thật. Người người vốn đủ, ai nấy tròn đầy. Phật tính pháp thân như hình với bóng, lúc ẩn lúc hiện, chẳng dính chẳng rời. Lỗ mũi thẳng xuống cửa mặt, lông mày vắt ngang hố mắt, há dễ tìm thấy được đâu ?
Nên hãy đi tìm cái đạo không thấy. Ba ngàn pháp môn cùng về tấc dạ. Hà sa diệu dụng thảy tại nguồn tâm. Cái gọi là giới môn, định môn, tuệ môn, các người không thiếu. Nên trở về mà tự nghĩ suy. Phàm những tiếng ho hắng, mày dương mắt nháy, tay cầm chân bước, đó là tính gì? Biết được tính đó là tâm gì, tâm tính rõ thông, thì cái gì đúng, cái gì là không đúng.

Pháp tức là tính, Phật tức là tâm. Tính nào chẳng phải là pháp? Tính nào chẳng phải là Phật. Tức tâm tức Phật, tức tâm tức pháp, pháp vốn chẳng pháp. Tức pháp tức tâm, tâm vốn chẳng tâm, tức tâm tức Phật.
Này các người, thời gian dễ trôi qua, mạng người không dừng lại. Cớ sao ăn cháo ăn chay, mà không rõ việc cái bát cái tô, chiếc thìa đôi đũa để tìm hiểu?
* * *
Bấy giờ có vị tăng bước ra, nói:
Ăn cơm mặc áo, tầm thường việc
Sao phải quan tâm để phát ngờ.
Bèn lạy xuống, rồi đứng lên hỏi:
- Cõi thiền vô dục thì không hỏi. Cõi dục không thiền, xin nói cho một câu.
Sư đưa tay chỉ vào khoảng không.
Lại đứng lên hỏi:
- Dùng đờm dãi người xưa để làm gì?
Sư nói:
- Mỗi lần nêu ra, một lần mới.
Lại đứng lên hỏi:
- Người xưa đều nói như thế nào là Phật, như thế nào là pháp, như thế nào là tăng. Chỉ như thế nào ấy thì việc thế nào?
Sư đáp:
- Như thế nào. Việc như thế nào.
Lại đứng lên nói:
Không dây đàn gảy tri âm ít
Cha đánh con nghe, cách điệu cao.
Vân vân.
* * *
Một hôm, sư nghe đồ đệ tụng kinh, bèn hỏi:
- Chúng làm gì thế?
Có tăng đi ra, thưa:
- Chúng niệm Phật tâm.
Sư nói:
Nếu bảo là tâm,
Tâm tức không Phật.
Nếu bảo là Phật,
Phật tức không tâm.
Thì gọi cái gì là tâm?
Tăng không nói.
* * *
Lại hỏi một vị Tăng:
- Chúng đang làm gì?
Tăng đáp:
- Niệm Phật.
Sư nói:
- Phật vốn vô tâm thì niệm cái gì?
Lại đứng lên nói:
- Niệm việc đó.
Sư hỏi:
- Việc đó là việc gì?
Lại đứng lên nói:
- Không biết.
Sư nói:
- Ông đã không biết, thì người nói đó là ai?
Vị Tăng không đáp lời.
Vân vân.
Lỗ kiến vỡ đê
Mảy bụi che mắt
Một hạnh vừa mất
Trăm hạnh đổ theo.
Trân trọng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/02/2013(Xem: 6608)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7903)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9104)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 14651)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6784)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5412)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4924)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5332)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6151)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5991)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567