Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kính Thương Ôn Vô Hạn - Thích Hạnh Tuệ

01/08/201123:19(Xem: 4939)
Kính Thương Ôn Vô Hạn - Thích Hạnh Tuệ

Kính Thương Ôn Vô Hạn


Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

Cung kính ngưỡng bạch giác linh Cố Đại Lão Hòa Thượng Thượng Hạnh Hạ Đạo thùy từ nhã giám.

P1010897
Thầy trò con chụp hình với Ôn ngày 24//8/2006
Thoáng chốc mà Ôn và Thầy con đã về với Phật cả rồi!

Con đến thăm Ôn vào một chiều đầu mùa hạ. Ôn ốm hơn rất nhiều. Cái bệnh, cái đau của thể xác không làm cho Ôn nhăn nhó khó chịu, mà ngược lại, Ôn vẫn tươi cười để cho con hầu chuyện. Ôn hỏi: “Thài Nguyên Siêu khỏe hông?” “Chùa Phật Đoà suô rồi?” “Vĩnh Đức uơ lo?” “Dộo nầy điếc lắm….” Giọng “Quảng Nôm” “Đà Nẽng” của Ôn nghe sao mà thương lạ. Có ngờ đâu, những câu nói ấy là đã trở thành kỷ niệm, đã theo Ôn vào chốn vô cùng...

Ngôi chùa Phổ Đà là nơi con lưu trú đầu tiên khi đến Mỹ. Lúc ấy, con cứ nghĩ trong “bụng” là chùa ở Mỹ cái nào cũng đẹp lắm, to lắm, hiện đại lắm… Nhưng không, chùa Phổ Đà của Ôn vẫn cũ mèm, nhỏ xíu. Bao nhiêu năm nay, Ôn vẫn ở trong cái gara xe bé tí tẹo, nắng nóng, mưa lạnh, cho đến bây giờ vẫn không có máy điều hòa nhiệt độ. Giữa cuộc sống xa hoa đô hội, vật chất ngút ngàn như đất nước nầy thế mà đời Ôn dung dị, hiền hòa như vậy đó. Hình như là, cái vật chất kia không còn làm cho Ôn quan tâm đến nữa. Đã một thời, Ôn sống hiên ngang, phất cao ngọn cờ chính nghĩa, xả thân cho dân tộc, giống nòi. Rồi sau biến cố lịch sử 1975, Ôn cùng quý Chư Tôn Đức khác và những người con của đất nước trung kiên miền Nam rơi vào vòng lao lý. Mười năm tù cải tạo, bao nhiêu trận đòn roi, bao nhiêu lần tra khảo, đã làm cho vóc dáng oai hùng yếu đi; tay chân của người Tu sỹ kia sau bao năm lên rừng, bao năm xuống biển cũng chai sần, khô khốc. Ôn qua Mỹ theo diện HO-19 là chương trình bảo lãnh sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hòa của chính phủ Hoa Kỳ. Rồi một lần nữa, Ôn làm lại từ đầu, tạo dựng cơ sở chùa Phổ Đà nho nhỏ, thân thương.

Con vẫn còn nhớ, hình ảnh Ôn chống gậy ở phi trường Los Angeles để đón Thầy trò con lúc mới sang Mỹ. Và trong những ngày tháng lạ người lạ cảnh, Ôn đã cho Thầy trò con ở lại chùa Phổ Đà. Cũng với bi nguyện bao la, Ôn cũng đã tổ chức cho Thầy con bữa tiệc chay gây quỹ xây dựng Tu viện Vĩnh Đức vào ngày 18/8/2006. Nhờ vào oai đức của Ôn, Chư Tôn Đức Tăng – Ni và Phật tử quang lâm chứng minh và tham dự rất đông đảo. Với con, Ôn là người khuyên con ở lại Mỹ để học hành và hoằng pháp. Ân đức nầy của Ôn, làm sao con có thể quên đi cho được.

Hôm nay đây, Ôn đã thật sự ra đi về cõi Phật. Chúng con không sao tránh khỏi bùi ngùi, kính tiếc một bậc Thầy vô cùng nhân hậu, một bậc Long Tượng Thiền Môn. Chúng con vẫn biết là: “Sinh như trước sam, tử như thoát khố, tự cổ cập kim, cánh vô dị lộ” (Sinh như mặc áo, chết như cởi quần, xưa nay vô cùng, không đường nào khác)củaVô Nhị Thượng Nhân, nhưng sao vẫn cứ đọng lại nơi lòng con và hàng bao nhiêu chư Tăng Ni và Phật tử nói chung một niềm xúc cảm sâu lắng. Cái gì rồi cũng sẽ qua đi, cái gì rồi cũng sẽ bị phủ mờ dưới lớp bụi thời gian, nhưng những lời ban đạo từ và dung nghi từ hòa, khả kính của Ôn sẽ khó phai nhạt trong tâm trí của bao người. Giọng nói của Ôn, ánh mắt của Ôn đã tiếp cho bao người niềm tin và dũng khí trong cuộc sống.

Kính lạy Ôn:

“Sinh nhi bất sinh, Thích Tôn thượng song lâm thị tịch,

Diệt nhi bất diệt, Đạt Ma tằng chích lý Tây quy.”

Mùa Vu Lan Thắng Hội năm nay vắng Ôn, chùa Phổ Đà buồn hơn bao giờ hết. Bao nhiêu niềm thương Ôn, bao nhiêu niềm kính Ôn, con xin thắp nén hương lòng cầu nguyện cho Giác Linh Ôn về cõi Lạc Bang và sớm hội nhập Ta Bà để hóa duyên tự tại. Để rồi từ nay, mỗi lần về lại thành phố Santa Ana, mỗi lần về lại chùa Phổ Đà, con chỉ còn thấy Ôn trong di ảnh, con chỉ còn thấy bảo tháp của Ôn cũng nhỏ xíu (như cái gara)nằm khiêm tốn ở góc vườn chùa. Ôn đã đến, Ôn đã sống và Ôn đã ra đi như vậy đó. Con thuyền sau những tháng năm đưa khách qua sông, rồi đỗ mục ở bến sông đời lặng lẽ…

Con kính thương Ôn vô hạn.

Nam Mô Tự Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế, Hải Ngoại Phổ Đà Tự Khai Sơn tịnh Trú Trì, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội Ư Hoa Kỳ, Chứng Minh Hội Đồng Thành Viên, Húy thượng Thị hạ Uẩn, Tự Hạnh Đạo, Hiệu Thuần Phong, Nguyễn Công Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh Liên Tòa Chứng Giám.

Con Thích Hạnh Tuệ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6902)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 794)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33752)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4684)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4649)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4615)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4570)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4888)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4613)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7553)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567