Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Ra Đi Thật Rồi Sao?

16/07/201114:10(Xem: 4801)
Người Ra Đi Thật Rồi Sao?
NGƯỜI RA ĐI THẬT RỒI SAO ?
(Thành kính tưởng niệm Giác Linh cố Hòa Thượng Thích thượng Chí hạ Năng)

Cách đây mấy hôm, vào một buổi sáng, khi tôi đang dạo bộ ngoài sân Chùa, chợt có một vị Tăng ngừng xe hơi gấp, bước vào hỏi :


- Thầy có nghe tin tức gì chưa?

- Tin tức gì vậy?
- Thầy Chí Năng từ trần rồi!
- Từ trần? Sao vậy? Có thật không?
- Nghe nói vậy đó, Thầy liên hệ xem sao.
Thật khó mà tưởng tượng là Thầy Chí Năng đã viên tịch. Xin được gọi Cố Hòa Thượng Thích Chí Năng bằng tiếng “Thầy” đầy thân thương ân tình, gần gũi như tôi vẫn thường gọi Ngài khi còn tại thế. Bởi lẽ Thầy vừa đến tuổi 62, trông bên ngoài vẫn còn khỏe mạnh, nhanh gọn, minh mẫn lắm. Tôi tìm cách liên hệ về Chùa Đại Bi Quan Âm – Nam Cali thì được xác nhận về tin tức này. Mấy ngày nay tôi miên man suy nghĩ , hồi tưởng và những hình ảnh của Thầy như một cuốn phim hiện về tâm trí tôi…
Lần đầu tiên tôi biết đến Thầy là lúc Thầy về Tu Viện Nguyên Thiều, Bình Định năm 1993, thăm lại quê hương, chư Tôn Đức, quay phim và chụp hình cảnh sinh hoạt Trường lớp và Tăng Ni sinh Tu Viện Nguyên Thiều để mang về Hoa Kỳ cho TT. Thích Minh Dung và Ban Bảo Trợ cũng như nhiều người khác xem cho biết. Hiện nay,những bức hình trang nghiêm có đầy đủ chư Tôn Đức Bình Định và Tăng Ni Sinh khoá I, Trường Trung Cấp Phật Học Nguyên Thiều, nơi tượng Phật Thích Ca lộ thiên, vốn xuất phát trong dịp đó.
Những năm đầu tại Hoa Kỳ, tôi ở Chùa Lục Hòa, Boston, Massachusetts. Mỗi năm, Thầy đều đến Trung Tâm Thiền Cambridge do Thiền Sư Sùng Sơn – Hàn Quốc sáng lập ( Cambridge, 199 Auburn Street, Cambridge, MA, of Zen Master Seung Sahn) để tham dự khóa tu thiền và hướng dẫn các thiền sinh. Thầy liên hệ rủ tôi cùng đến trung tâm Thiền này. Thầy hướng dẫn tôi cách lên Thiền đường, cách ngồi thiền, cho đến cách ăn uống tự phục vụ, sinh hoạt,…Có lần Thầy dẫn tôi vào hội trường nghe một Đạo Sư diễn thuyết về Thiền. Tôi liên tục đặt những câu hỏi, đòi hỏi sự logic, duy lý trong việc diễn giải về Thiền. Khi ra ngoài, tôi hỏi Thầy nhận xét gì về diễn giả và những thắc mắc của tôi. Thầy mỉm cười đáp : “Về mặt lý luận mà nói, Thầy thông minh, sắc sảo, lý luận vững vàng nhưng về mặt hành giả mà nói thì Thầy chưa đạt đến chỗ tinh yếu của Pháp môn Thiền này.” Tôi lẳng lặng ghi nhận và thầm hứa với lòng sẽ “hạ thủ công phu” nhiều hơn nữa.

Những lúc tôi về Chùa Quang Thiện, Ontoria, Cali tham dự Lễ cúng giỗ Sư Phụ tôi, đệ nhất trụ trì Tu Viện Nguyên Thiều và Lễ Thọ Tang, Truy Niệm đức đệ tứ Tăng Thống GHPGVNTN, cố HT Thích thượng Huyền hạ Quang, lòng tôi thật nhiều xúc cảm khi lắng đọng hòa âm với Thầy Sám Chủ Thích Chí Năng xướng lễ. Âm điệu của Thầy trầm bỗng, du dương, lạ thường. đậm đà âm vị Bình Định, biểu hiện được tâm tư tình cảm của Thầy dành cho các bậc Ân Sư. Sau đó, tôi có đến thăm Chùa Đại Bi Quan Thế Âm. Sở dĩ Chùa có tên như vậy ắt hẳn bởi vì Thầy y chỉ và học đạo với Thiền Tổ Sùng Sơn, năm 1999 ngài được Thiền Tổ Sùng Sơn Hạnh Nguyện đời thứ 78 thuộc dòng thiền Quan Âm Tào Khê ở Hàn Quốc ấn khả. Với hạnh nguyện Từ Bi Quan Âm độ sanh mà Thầy “ứng thân thị hiện”, "nơi nào chúng sanh cần thì ta đến", tuy Thầy từng lưu trú nhiều chùa khác nhau nhưng không trụ chấp một nơi nào, cuối cùng Thầy chọn vùng sa mạc xa xôi ít người lui tới ở San Bernadino này làm nơi cư trú, tu tập và hoá độ những ai có duyên. Nơi này phù hợp với hạnh thiểu dục, tri túc, ưa thích tịnh cư nơi vắng vẻ, chuyên sâu thực tập quán chiếu, hành trì của Thầy.

Dịp Xuân Tân Mão, tôi về thăm lại quê hương Vietnam và thăm phụ thân tôi đang lâm bệnh nặng sau khoảng thời gian dài xa cách. Tôi lại có duyên cùng ở chung với Thầy tại phòng khách số 2, Chùa Giác Uyển, Phú Nhuận, Saigon. Những ngày đó, Thầy chia sẻ, tâm tình với tôi nhiều việc về cuộc sống tu học và hoằng Pháp. Thầy có giới thiệu cho tôi về sinh hoạt Phật sự tại một cơ sở tự viện tại San Jose, Cali. Tôi có thưa với Thầy là sau chuyến đi Vietnam, trở lại Hoa Kỳ, tôi sẽ đến xem cơ sở đó thế nào rồi tùy duyên định liệu. Trong dịp này, một Sư Đệ của tôi, Thích Đồng Viên, cùng tháp tùng với TT. Thích Viên Định từ Chùa Giác Hoa đến Chùa Giác Uyển tham dự Lễ Huý Kỵ Giác Linh 3 Vị Hòa Thượng Tôn Túc Bình Định trong ngày mồng 06 tháng Ba, Tân Mão, Thầy có hỏi về tình hình tu học và đường hướng tương lai của Sư Đệ đó, rồi khuyến bảo : “Các Thầy trẻ học được như vậy là khá rồi đó. Việc quan trọng hơn nữa là phải tu tập. Các Thầy có thể giảng nói cho người khác về Đạo Pháp nhưng có bảo đảm là điều phục được chính mình, phiền não, khổ đau hay chưa? Nếu chưa thì hãy cố gắng tu tập”. Sau đó, Thầy “lì xì” cho Đệ Đồng Viên một “chút quà” để kỷ niệm và hỗ trợ việc tu học.
Tôi được nghe kể lại, Thầy có duyên nghe được, ghi chép và ca ngợi 4 câu thơ của tôi làm khoảng 18 năm trước:
Bất bình là luỵ với trần ai
Hãy mỉm cười lên, bước bước dài
Như hoa dẫu nở trong mùa Hạ
Vẫn vẫy tay chào với gió mai.
Tôi cũng chẳng hiểu tại sao mấy câu thơ mộc mạc này của tôi lại được Thầy ưa thích như vậy. Có lẽ Thầy tu Thiền nên thích những điều giản dị và đoạn thơ phù hợp với hoàn cảnh đối diện thực tại, rèn luyện tự thân, vượt qua nghịch cảnh của Thầy. Phần tôi có duyên đọc được và tâm đắc với bài thơ “Cảm Đề” do Thầy sáng tác :

Bạn tự tại dạo chơi miền Tịnh Độ

Tôi âm thầm dạo bước cõi tử sanh
Trên trời xanh thạch sư vờn vân cẩu
Đáy biển sâu nê ngưu giỡn thủy thần
Rời Tịnh Độ, bạn thổi tiêu không lổ
Bỏ luân hồi, tôi đàn cầm không giây
Khắp ba cõi tánh Di Đà rực rỡ
Tận lục phàm vô lượng hoá Kim thân
Hạnh "Nam Mô" châu biến hải vi trần
Nguyện "Chơn Ngã" vẹn phần vô sở đắc
Tâm "Chỉ vật" Pháp Tịnh thiền Viên Đốn
"Ta là gì" thành đạo cứu quần sanh.

Quả thật, nếu không có công phu miên mật, không thấu triệt được bản chất cuộc đời, không đạt được tự tại, thảnh thơi, không có đại lượng, đại bi, đại nguyện cứu độ quần sanh thì không thể cảm tác được những câu thơ đầy ý vị siêu phàm thoát tục như vậy, cũng như không thể luận giải nổi về hành trạng và tu chứng của Tổ Sư Thiền Liễu Quán như Thầy đã trình bày trong tác phẩm: “Liễu Quán Thiền Tông Pháp Môn Tu Chứng”.

Trong dịp xuống Nam Cali thăm HT Thích Nguyên Lai cuối tháng 06/2011 vừa qua.Một buổi sáng,trong khi chờ đợi 2 vị Thầy từ San Diego đến Santa Ana rồi cùng tôi về lại San Jose, tôi chợt nghĩ đến Thầy nhưng lúc đó không có sẵn xe để đi thăm Thầy. Tôi tự bảo với lòng mình là đến cuối tháng 07/2011, nhân chuyến đi Phật sự tại Chùa Xá Lợi và các Chùa tại Nam Cali trong 5 ngày thì sẽ đến thăm Thầy. Nhưng dự định này mãi mãi sẽ không còn thực hiện được nữa rồi. Có chăng là thăm lại ngôi Chùa xưa, phương trượng, hương án, di ảnh di vật của Thầy mà thôi.
Thế là hết. Thầy tự kết thúc hành trình kiếp nhân sinh của mình. Kể từ đây làm sao có được những giây phút hầu trà đàm Đạo với Thầy để nghe Thấy nhắc nhở về lý tưởng sống của người xuất gia? Tôi có nghe kể lại việc Thầy điện thoại thăm Mẹ và gia đình báo trước sự chia ly cũng như viết di chúc căn dặn các điều cần thiết sau khi Thầy ra đi. Như vậy, Thầy rất bình tĩnh, cân nhắc và chủ động trong việc xả bỏ báo thân ngũ uẩn, vô thường tạm bợ này để bước vào một hành trình mới, một hoá thân mới trong một phương sở mới. Có thể có nhiều người bàn tán xôn xao, bình luận, thị phi, dị nghị về sự “từ trần bất thường” của Thầy nhưng Thầy xưa nay vốn không quan tâm đến dư luận thế gian, chỉ như là tiếng gió xôn xao hoặc bọt nước đầu ghềnh mà thôi. Nếu như chúng ta chưa đạt đến đẳng cấp như Thầy thì làm sao hiểu hết mà bàn về việc làm của Thầy? Trong Thiền Tông và hạnh nguyện Bồ Tát há chẳng phải là đã có những câu chuyện “bất bình thường” hay sao, như trường hợp tiền thân Đức Phật bố thí thân mạng cho cọp đói, Pháp Sư Cưu Ma La Thập nhận 10 cung nữ, đòn gậy của Thiền sư Đức Sơn, Tiếng Hét của Thiền Sư Lâm Tế, Thiền Sư Nam Tuyền giết mèo, hành hoạt của Tế Điên Hòa Thượng… Họ sẵn sàng chấp nhận những nhân quả xảy ra với họ, điều họ quan tâm là khai thị, để lại bài học cho đại chúng.
Đó chính là phong cách : “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ”, không câu nệ, chấp chặt về hình thức, lối mòn, đầy sáng tạo và ấn tượng trong Thiền Tông :

Làm trai có chí xông trời thẳm,

Theo bước Như Lai luống nhọc mình.

Không phải tôi tán thán và khuyến khích sự kết liễu cuộc sống và ra đi này của Thầy. Nếu ai chưa đạt được đến trình độ tu tập và không ở trong tư thế hoàn cảnh như Thầy thì không nên bắt chước làm theo Thầy. Tuy nhiên, hình ảnh suốt cuộc đởi của Thầy và ngay cả phương cách Thầy chọn ra đi để lại cho chúng ta tấm gưong sáng với nhiều bài học về : thế gian đầy rẫy những cạm bẫy, nguy hiểm và khổ đau, cơn lốc vô thường có thể cuốn chúng ta đi bất cứ lúc nào, hãy chọn pháp môn thích hợp tu tập, tinh tấn, nhiệt tâm ngày đêm công phu, thực hành, chính Thầy nhiều năm tháng hành trì Thiền Tọa không nằm ngủ, sanh tử sự đại, phải nắm cho được giềng mối để vượt thoát, không nên dễ duôi, buông lung phóng dật, chạy theo dục lạc, danh lợi, địa vị, chấp trước và ràng buộc, …

Tôi đang trầm tư về sự thị hiện. Người mang hạnh nguyện Bồ Tát đến và đóng vai trò gì đó trong cuộc sống, khi chúng sanh cần thì đến và ra đi khi mọi việc đã xong. Giữa lúc thế cuộc phân phi, bao nhiêu tranh chấp, nhiều người đang giả trang thiền tướng, chen lẫn vào hàng Phật tử, Tăng già, giả điều nhân nghĩa, bày vẽ phong trào, phô trương hình thức, mưu toan lợi tộc, củng cố địa vị,…làm biến hoại Phật Pháp thì sự hiện diện của Thầy vẫn có nhiều ý nghĩa, tác dụng, cớ sao Thầy lại chọn thời điểm này mà ra đi? Sự ra đi của Thầy là một tổn thất lớn lao, thật khó tìm ra hình ảnh ai với cốt cách như Thầy để thay thế. Tuy nhiên, quyển sách hay đến đâu rồi cũng đến hồi kết thúc, vở kịc h tuyệt vời đến mấy rồi cũng đến lúc hạ màn. Dù rằng : “Thân người khó được, Phật Pháp khó gặp”, chúng ta không thể đòi hỏi Thầy làm tất cả mọi việc với một thân mạng này. Duyên đã mãn, những việc cần làm đã làm xong, Thầy xả bỏ huyễn thân này, qua sông bỏ thuyền, chúng ta cũng đừng nên đòi hỏi Thầy phải như thế này hay như thế khác, làm gì nhiều hơn nữa cho chúng ta, bởi vì chúng ta không phải là Thầy thì làm sao hiểu hết được tâm sự của Thầy? Hơn nữa, nếu như Thầy an nhiên thị tịch thì điều này cũng đã có nhiều người từng làm, đâu có để lại những bài học đầy ấn tượng cho chúng ta? Xưa kia, Ngài La Hầu La thường có những hành động trái nghịch nhờ đó mà chúng ta có được những bài học bất hũ thế thì hôm nay Thiền Sư Chí Năng cũng thị hiện một đoạn kết éo le để nhắc nhở chúng ta về Tam Pháp Ấn - khổ, vô thường, vô ngã- về sức mạnh của nghiệp, về mỏng manh nguy hiểm của côi dục, ngũ trược ác thế, về Khổ Tập Diệt Đạo…
Phật Pháp có 84.000 ngàn Pháp môn, mỗi người có một công hạnh khác nhau, có người lại có nghịch hạnh nữa. Người đã ra đi nhưng người vẫn còn ở lại. Tôi cảm thấy phần nào trống vắng mỗi khi trở lại Nam Cali mà không còn Thầy để đến thăm và hầu chuyện nữa. Thế nhưng hình bóng Người đã in đậm trong tâm khảm tôi, luôn văng vẳng bên tai tôi lời nhắc nhở thường trực :“cõi đời tạm bợ, phù du, phỉnh phờ, hãy miệt mài, hạ thủ công phu, siêu sanh, thoát tử, tu làm sao chuyển nghiệp, quỷ vô thường không chờ đợi một ai, học mà không tu thì cũng như cái đãy đựng sách, nói nhiều mà không làm thì thà rằng nói ít mà làm nhiều, phải thời thì đến, hết duyên thì đi, đừng trụ chấp, luyến tiếc mà phải bị buộc ràng, hãy tinh tiến lên để giải thoát, không ai làm thế phần cho ai, Như Lai và các bậc tiền bối Tổ Sư chỉ là những bậc Đạo Sư chỉ đường mà thôi”
“Thư bất tận ngôn”, “lời quê góp nhặt dong dài” này là tấm lòng thành và nén hương đưa tiễn cho bước đăng trình, trước khi di thể Thầy trở về cát bụi. Tôi mãi mãi tri ân duyên hạnh ngộ với Thầy trong cuộc sống, những bài học rút ra từ Thầy, tôi nguyện sống xứng đáng với hạnh người con Phật trong cuộc thế đầy nhiễu nhương, phức tạp như những lần đã từng tâm sự với Thầy. Cầu nguyện hồng ân Tam Bảo gia bị cho Thầy : hạnh nguyện bất thối, phổ độ quần sanh, công viên quả mãn, tuỳ sở trụ xứ thường an lạc.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tứ Thế, Đại Bi Quan Âm Đường Thượng Trú Trì, húy thượng Nguyên hạ Bàng tự Chí Năng hiệu Giác Hoàng, tân viên tịch Hoà Thượng Giác Linh.

Chùa Hồng Danh, San Jose, ngày 14/07/2011

Khể Thủ


TK. Thích Minh Tuệ


(Thích Đồng Trí)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6628)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6923)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 916)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33909)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4723)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4674)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4627)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4589)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4915)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4631)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567