Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Khắp trời sen nở

05/06/201112:01(Xem: 6000)
4. Khắp trời sen nở

BÓNG ÁO NÂU
TẬP SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH

Phần III:
Những bài viết về thầy

Khắp trời sen nở

Trụ thế năm mươi ba xuân
Độ đời hằng chuyển pháp luân mọi miền

Đến đi tự tại an nhiên

Lìa thân như huyễn cõi thiền thong dong.

Thấm thoát đã hai mùa trăng tháng tám, những hàng cây chốn tổ Huệ Nghiêm vẫn chưa thôi ủ dột, thương tiếc thầy vội vả ra đi, các giảng đường Phật học như còn văng vẵng âm ba mưa pháp của thầy, bàn làm việc tại các văn phòng giáo hội vẫn như thiếu vắng một bóng người không ai có thể hoàn toàn thay thế được. Ngoài ra nữa, bao hạ trường cùng đạo tràng tu Thập Thiện và Bát Quan trai... tất cả cũng cảm nhận không thể quên thầy - bậc đạo sư thân thương, hiền hòa dung dị.

Vội vã mà thật an nhiên, thầy đã vĩnh viễn ra đi để lại bao nhớ tiếc cho đời, hàng hậu học, thiếu một người thầy anh minh dìu dắt. Cả chúng xuất gia lẫn tại gia còn đang chơi vơi giữa đôi bờ sanh tử, hướng về ân sư các pháp lữ đều thốt lên nỗi niềm luyến tiếc khôn nguôi.

Ngẩn ngơ trước cảnh vô thường

Hiểu mà vẫn thấy đau thương ngút ngàn

Trong thâm tình linh sơn cốt nhục, ai trong chúng ta không kính thương tưởng nhớ về thầy, bậc chân tu đạo hạnh cao dày, xứng ở ngôi chúng trung tôn của đức Từ Phụ. Cả cuộc đời Thầy là tấm gương tận lòng phụng sự, vì Phật Pháp trường tồn và tăng chúng an hòa, vì nhu cầu giải thoát giác ngộ của kẻ hậu học, thầy đã lăn bánh xe chuyển pháp, với những tháng năm dài không mõi mệt. Dưới mỗi bước chân thầy dạo đi hoằng hoá, từng cánh sen hồng nở thắm, tô đẹp mọi miền. Theo mỗi lời thầy tuyên, Phật pháp sâu mầu, hương giải thoát nhẹ nhàng lan tỏa, huân ướp niềm an lạc mọi nơi.

Để tỏ lòng kính quí và tiếc nhớ thầy - bậc ân sư khả kính, chúng ta hãy gạt đi mọi sầu thương bi lụy thường tình, giữ trong lòng từng lời, từng ý pháp thâm sâu, tôi luyện thành chất liệu an lạc trạm nhiên, hầu nối gót thầy trên hành trình phổ độ. Hãy tỏa rộng tấm gương đạo hạnh của thầy đến khắp nơi mọi chỗ, cho hoa sen đua nở ngập trời, chuyển Ta Bà thành cõi Tịnh an vui, ấy cũng chính là bản hoài của mười phương chư Phật vậy.

Ni Trưởng Tịnh Thường

An cư kiết hạ

nguồn sinh lực của tăng già

An cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa, tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân, hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ, địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần của Luật Bồ Tát.

Vì sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ? Có phải an cư là thời gian để tăng già tích luỹ nguốn sinh lực hay không?

Hàng xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật đạo và hạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần, bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió, thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế mới biết, an cư là thời gian quý báu để người tu hành có điều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.

Bộ Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết; bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân. Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá an cư là Tự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để bổ khuyết sửa chữa.

Một lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật hỏi:

- Vừa qua các ông có được an lạc không?

- Thưa an lạc lắm ạ!

- Thế trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?

Các thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:

- Bạch Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người giữ im lặng tuyệt đối.

- Đức Phật quở trách:

- Các ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổi và học hỏi lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.

Năng lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ, Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ viên mãn.

Cũng như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó, vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - chủ nghĩa xã hội”.

Rõ ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật, trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.

Mùa An Cư - PL 2544

Thích Chơn Thanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2023(Xem: 2186)
Vào sáng thứ bảy ngày 07/01/2023, chùa Phổ Từ tọa lạc tại số 17327 Meekland Avenue, thành phố Hayward, tiểu bang California, Hoa Kỳ đã trang nghiêm tổ chức Lễ Tiểu tường cố Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại chánh điện. Thiền sư Thích Nhất Hạnh - nhà văn hóa, nhà văn, nhà thơ, học giả, sử gia và nhà hoạt động hòa bình, đã viên tịch tại Tổ đình Từ Hiếu, thành phố Huế, Việt Nam ngày 22 tháng 01 năm 2022. Nhằm bày tỏ lòng biết ơn đối với ân đức, tình thương cao rộng của Sư Ông Làng Mai qua nhiều năm giảng dạy thiền quán; với công trình trước tác, phiên dịch kinh sách to lớn; chùa Phổ Từ đã tổ chức Lễ tưởng niệm cố Thiền sư vào ngày 29/01/2022; ngày 30/01/2022; Lễ Chung thất - tưởng niệm vào ngày 13/3/2022.
26/12/2022(Xem: 2155)
Thầy chào đời cuối Đông. Phủ Xuân Trường, Nam Định. Đất Bắc Hà - Thăng Long. Ngàn năm xưa hưng thịnh. Lập chí nguyện xuất trần, Thuở đồng chơn nhập đạo. Cội Đức Nhuận thắm nhuần. Đượm hồng ân Tam bảo.
24/12/2022(Xem: 2631)
Sư bà Hải Triều Âm là một bậc tu hành mẫu mực, một tấm gương sáng ngời cho tất cả những hành giả đang bước theo con đường Đức Phật đã chỉ dạy, cho cả ni lẫn tăng xuất gia và hàng cư sĩ tại gia. Ngài được xem như là hiện thân của một Sư Tổ Kiều Đàm Di thời hiện đại. Bài viết dưới đây có tựa là “Di Chúc Của Sư Bà Hải Triều Âm” được phổ biến trên mạng trong những tháng năm sau ngày Sư Bà mất 31 tháng 7, 2013.
14/11/2022(Xem: 2360)
Ngày 12,13-11 (19,20-10-Nhâm Dần), BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa và môn đồ pháp quyến đã trọng thể tổ chức lễ Đại tường Trưởng lão Hòa thượng Thích Ngộ Tánh, nguyên UV HĐTS, Trưởng BTS kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, viện chủ chùa Thiên Bửu (thôn Bình Thành, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) và chùa Đức Hòa, phường Ninh Hiệp.
11/11/2022(Xem: 2464)
Sáng ngày 09/11/2022 (nhằm ngày 16 tháng 10 Nhâm Dần), môn đồ pháp quyến chùa Diên Thọ đã trang nghiêm tổ chức lễ húy nhật lần thứ 31 cố Hoà thượng Thích Hải Tuệ - Trừng San (Tân Mùi 1991- Nhâm Dần 2022). Đến tham dự lễ tưởng niệm có sự hiện diện của Chư tôn Hoà thượng: - Hoà thượng Thích Trừng Thi (chùa Tòng Lâm Lô Sơn) - Hoà thượng Thích Thiện Thông (chùa Sắc Tứ Minh Thiện) - Hoà thượng Thích Phước An (chùa Hải Đức) - Hoà thượng Thích Tâm Trí (chùa An Dưỡng) - Hoà thượng Thích Chí Viên (Linh Phong Cổ Tự) - Hoà thượng Thích Như Minh (chùa Sắc Tứ Liên Hoa) - Hoà thượng Thích Đức Thành (chùa Pháp Tánh) - Hoà thượng Thích Nguyên Minh (chùa Sắc Tứ Kim Sơn)
11/11/2022(Xem: 1617)
Sáng nay 11-11-2022 (18-10-Nhâm Dần), tại chùa Đức Hòa - Văn phòng Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hòa, lễ tưởng niệm Đại tường có Trưởng lão Hòa thượng Thích Ngộ Tánh, nối dòng Lâm Tế đời thứ 45, Ủy viên Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, kiêm Trưởng ban Tăng sự tỉnh; viện chủ Tổ đình Thiên Bửu và chùa Đức Hòa.
07/11/2022(Xem: 2286)
Trong giai đoạn đầu thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn với quá trình mở đất xuống phương Nam, ngoài việc lưu tâm đến khai hoang, mở đất, lập làng, phát triển kinh tế xã hội, xây dựng luật nghi phép tắc nhưng các vị cũng không quên xây dựng và sử dụng Phật giáo như một hệ tư tưởng chuẩn mực cho đạo đức xã hội.
30/10/2022(Xem: 1717)
Sáng nay, mồng 5 tháng 10 Nhâm Dần (29/10/2022), bầu trời xám xịt, mưa bay lất phất những hạt nhẹ li ti gây nên cảm giác buồn man mác cho những người con xa Cha, vắng Mẹ, nhớ thương Thầy... Môn đồ Pháp quyến Tổ đình Linh Sơn Pháp Bảo đã thiết lễ Huý nhật lần thứ nhất cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Như Ý - Nguyên Thành viên Hội đồng Chứng minh Trung Ương GHPGVN, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Khánh Hoà, Viện chủ Tổ Đình Linh Sơn Pháp Bảo - Thành phố Nha Trang, Tỉnh Khánh Hoà.
27/10/2022(Xem: 1771)
Cố Ni trưởng Thích nữ Như Phương, thế danh Lê thị Thanh Cúc, sinh năm Mậu Tý (1948), xuất thân trong một gia đình nông nghiệp, tin Phật và phụng thờ Tam Bảo tại làng Tam Tân, xã Tân Tiến, thị xã LaGi, tỉnh Bình Thuận. Thân phụ là cụ ông Lê Thanh Trước -Pháp danh Minh Tiền, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Đặng- Pháp danh Thục Bông. Ni trưởng là con gái trưởng trong một gia đình có 6 chị em. Thuở nhỏ, Ni trưởng đã mến mộ Phật Pháp và tham gia sinh hoạt gia đình Phật tử tại chùa làng. Năm Canh Tý ( 1960) nhân ngày vía đức Bồ Tát Quán Thế Âm, Ni trưởng cùng thân phụ và em trai lên núi Tà Cú lễ Phật tại tổ đình Linh Sơn Long Đoàn (chùa dưới). Ni trưởng được duyên lành đảnh lễ Đại lão Hòa thượng Quảng Nhơn- Ấn Tâm làm thầy truyền tam quy giới, ban cho tự Thục Hương, từ đó tâm bồ đề khai mở, chí cắt ái ly gia ngày thêm mạnh mẽ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567