Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Xuất gia

05/06/201112:01(Xem: 7121)
4. Xuất gia

BÓNG ÁO NÂU
TẬP SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH

Phần II: Truyện ký Bóng áo nâu
Đồng tác giả:
Thu Nguyệt - Đỗ Thiền Đăng - Thiện Bảo

Xuất gia

Bé có một người cô ruột, lớn hơn chú chừng mười tuổi. Cô là con gái được cưng nhất trong gia đình, nhưng quyết chí đi tu và xuất gia năm mười sáu tuổi. Có lần cô về thăm nhà, Bé níu áo cô kéo ra góc vườn hỏi nhỏ:

- Cô ơi, sao cô đi tu?

Cô cười hiền lành, nhỏ nhẹ kể cho Bé nghe:

- Hồi cô còn nhỏ, nhà bà nội hay được quí thầy cô ghé thăm. Mấy thầy cô điềm đạm, nhân từ, dễ thương lắm! Cô nhìn thấy người tu sao mà thanh thoát quá. Tự dưng cô thấy ham đi tu, được mặc áo giống như quí cô...

Bé ngắt lời:

- Còn cạo đầu, bộ cô hổng thấy mắc cỡ sao?

Cô cười ngất:

- Có gì đâu mắc cỡ, đội cái khăn lên cũng đẹp vậy. Ừa, mà sao cô hổng thấy cạo đầu là xấu đâu nghen, ai nói xấu chớ cô đâu có thấy xấu! Mấy người bạn cũ của cô cứ nghĩ chắc là cô thất tình hay chán đời, bất bình gì đó nên mới đi tu...

Rồi dường như có điều gì bức xúc, cô nói luôn một thôi một hồi: Người đời như con cá lìm kìm trong mương trong rạch, nước chảy liu riu, sóng xô nhỏ xíu, làm sao biết được con sông cái lớn rộng cỡ nào, sóng dậy ra sao? Cứ tưởng tất thảy nước trên đời chỉ có bi nhiêu, sóng chỉ lô nhô chừng ấy, lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử, làm như chùa là nơi để trốn chớ không biết đó là chốn quay về.... - Cô chợt bật cười - ý quên, cô hơi bực mình nên nói tùm lum, nói vậy làm sao con hiểu nổi! Thôi, mai mốt nếu đủ phước duyên, con đi tu thì tới lúc đó con sẽ hiểu liền.

Bé không hiểu thiệt, chú chỉ quan tâm đến điều khác, nên hỏi tiếp:

- Cô đi tu, nội hổng có la cô hả?

Cô lắc đầu cười rất thảnh thơi:

- Nội chịu cho cô đi tu lắm. Nội nói có chồng có con khổ lắm, đi tu là nhẹ nhàng.

Bé xịu mặt:

- Vậy mà ba với má con hổng cho con đi tu.

- Con có xin chưa?

- Dạ có. Thầy Thiện Thọ về xin con hai lần rồi mà ba má hổng cho. Ba nói mới có con là con trai đầu lòng, là anh hai lớn nhất trong nhà. Má thì nói con còn nhỏ, đi xa nhà tội nghiệp. Mấy anh An, Hiền, Phước, Đức... thầy cũng dắt đi hồi bằng con bây giờ chớ nhiêu. Mỗi lần thầy dắt mấy ảnh về thăm nhà, con càng nôn muốn đi theo. Cô biết hông, con có hỏi nhỏ mấy ảnh: “đi tu ở trển có vui không?” Mấy ảnh nói là vui lắm. Thầy dạy chữ nho vẽ ngộ lắm, dễ ẹc hà, không phải như tiếng Pháp mà mấy anh lớp nhứt trường con học đâu.

Cô im lặng, sau đó không biết có nói gì với ba má không, nhưng đến lần thứ ba, khi thầy Thiện Thọ về, thầy lại qua nhà xin ba thì ba đồng ý.

Thầy Thiện Thọ là trụ trì chùa Phước Lâm ở Tân Uyên – Biên Hòa. Thầy có bà con xa với ba. Thỉnh thoảng thầy về thăm người anh ruột ở nhà kế bên. Trong xóm, thầy đã dẫn đi tu hết sáu đứa cũng cỡ bằng tuổi Bé.

Vậy là đi. Bữa đó hình như má khóc nhiều lắm. Đêm, má ôm Bé ngủ, dặn dò đủ thứ, chú ậm ừ cho qua chớ nào có nhớ gì, lòng mãi nghĩ nôn nóng về chuyến đi. Ba cũng vậy, hình như suốt đêm ông không ngủ, đi tới đi lui đốt nhang trên bàn Phật hoài. Thầy không cho tiễn, má đứng ở cửa khóc, còn ba đưa theo được có đoạn đường, tới chùa Hải Huệ là thầy biểu ba về. Lên tới xe rồi, ngồi lúc lâu bên thầy tự nhiên Bé bỗng thấy nhớ nhớ... Tự dưng muốn khóc gì đâu! Hình như thầy thấy được tâm trạng chú nên kéo chú ngồi lại gần hơn rồi dỗ:

- Con đừng sợ. Đi tu với thầy, thầy thương lắm. Mai mốt nhớ nhà thì thầy đưa về thăm, có gì đâu!

Chú ngoan ngoãn ngồi nép vô thầy. Xe chạy, cảnh vật mới mẻ hai bên đường thu hút chú, chú mãi lo nhìn ngắm và tạm quên...

Chùa Phước Lâm là một ngôi chùa nhỏ do Hội Phật học Nam Việt xây cất. Chùa nằm trong xóm Uyên Hưng, thuộc chiến khu Đ, Biên Hòa. Ngôi chùa nhỏ nằm trong một khu dân cư thưa thớt. Quanh chùa trồng nhiều bưởi, chuối. Đất rộng nhưng thiếu người chăm sóc trồng trọt nên quang cảnh khá hoang sơ. Lần đầu tiên bước chân vào một ngôi chùa mà mình rồi sẽ được ở lại đây luôn, Bé vô cùng bỡ ngỡ. Thầy dẫn chú vô chánh điện lạy Phật, lạy Tổ rồi gọi hết mấy chú trong chùa ra giới thiệu:

- Đây là các huynh đệ của con. Từ nay thầy đặt cho con pháp húy là Nhật Bé, pháp hiệu Chơn Thanh...

Hầu hết là mấy anh em đã quen nhau. Sư huynh Chơn An, Chơn Hiền, mấy chú đồng trang lứa: Chơn Hòa, Chơn Hợp, Chơn Phước, Chơn Đức và hai chú nhỏ hơn Chơn Đạt, Chơn Tâm đều là bà con họ hàng hoặc người trong xóm nên Bé cũng bớt lo lắng lạ lẫm. Sư huynh Chơn An dẫn Bé đi tắm rửa và các chú xúm lại chia quần áo cho Bé mặc tạm thời trước khi may áo mới. Lần đầu tiên khoác lên mình cái áo đà của nhà chùa, Bé cứ thấy ngồ ngộ làm sao. Cảm giác nô nức gần giống như lúc mặc áo mới ngày tết, nhưng hình như nó còn thiêng liêng, quan trọng và đặc biệt hơn nhiều.

Buổi tối, lên chánh điện tụng kinh. Vẫn những bài kinh chú đã thuộc, đã tụng cùng ba ở nhà hoặc những ngày rằm, mùng một lên chùa Hải Huệ tụng cùng quí cô, nhưng sao buổi tụng kinh hôm nay Bé thấy long trọng quá. Chắc vì chú tự cảm thấy mình đã được đứng vào hàng ngũ người tu thiệt rồi.

Đêm ấy, đêm đầu tiên xa nhà, nằm giữa các huynh đệ trên bộ ván, nghe tiếng dế kêu, tiếng lào xào của gió bên ngoài... Bé nhớ nhà vô kể. Hình như tiếng gió ở đây cũng khác với gió ở nhà, mọi âm thanh đều khác. Bé bắt đầu thấy nhớ ba, nhớ má, nhớ em... Không biết giờ này ở nhà má có thức nhớ Bé không? Ba tụng kinh một mình chắc là buồn lắm? Bé thấy nước mắt chảy ra nóng hỗi. Chú nằm quay mặt vô vách, thút thít khóc. Lát sau, lỗ mũi nghẹt cứng một bên, chú trở mình quay ra thì thấy thầy đang đi rón rén về phía cái đèn dầu trên bàn, vặn to lên rồi bước lại ghé sát mặt vào mùng của chú. Chắc thầy xem coi chú đã ngủ chưa. Chú nằm im nhắm hi hí mắt, cố thở đều đặn. Thầy đứng nhìn hồi lâu rồi đi ra, không quên vặn nhỏ ngọn đèn như cũ. Chú cũng thiếp ngủ đi lúc nào không biết.

Thầy chọn ngày tổ chức lễ xuất gia cho các chú. Hôm ấy có mấy thầy lớn và một số Phật tử của chùa. Gia đình các chú đều ở xa, thời buổi chiến tranh đi lại khó khăn nên không ba má đứa nào đến tham dự được. Chùa được bày trí nghiêm trang. Thầy dẫn các chú đến quì trước bàn Tổ, nguyệân hương, lễ lạy rồi ra chánh điện tụng kinh, làm lễ xuất gia. Trước bàn Tổ thầy hỏi từng chú:

- Vì sao con xuất gia?

Dù đã suy nghĩ để trả lời từ trước, nhưng chú nào cũng lúng túng bạch thầy với giọng run run vì không khí trang nghiêm, long trọng. Sau vài lời huấn thị, thầy bắt đầu cạo tóc cho từng đứa:

Hủy hình thủ chí tiết
Cắt ái từ sở thân
Xuất gia hoằng thánh đạo
Thệ độ nhất thiết thân

Và tất cả các huynh đệ đều tụng đọc:

Thế trừ tu phát
Đương nguyện chúng sanh
Viễn ly phiền não

An cư kiết hạ

nguồn sinh lực của tăng già

An cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa, tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân, hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ, địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần của Luật Bồ Tát.

Vì sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ? Có phải an cư là thời gian để tăng già tích luỹ nguốn sinh lực hay không?

Hàng xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật đạo và hạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần, bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió, thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế mới biết, an cư là thời gian quý báu để người tu hành có điều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.

Bộ Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết; bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân. Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá an cư là Tự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để bổ khuyết sửa chữa.

Một lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật hỏi:

- Vừa qua các ông có được an lạc không?

- Thưa an lạc lắm ạ!

- Thế trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?

Các thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:

- Bạch Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người giữ im lặng tuyệt đối.

- Đức Phật quở trách:

- Các ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổi và học hỏi lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.

Năng lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ, Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ viên mãn.

Cũng như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó, vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - chủ nghĩa xã hội”.

Rõ ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật, trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.

Mùa An Cư - PL 2544

Thích Chơn Thanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/03/2017(Xem: 10132)
Xuất gia là một đại nguyện. Giữ được Tâm trong không thối chuyển là một đại duyên. Tại Việt Nam hôm nay, nếu lấy tròn số sẽ có 45.000 tu sĩ Phật giáo với dân số 100.000.000 người thì trung bình cứ 2.200 người mới có một người đi tu theo đạo Phật. Tại Hoa Kỳ hôm nay, ước lượng có 1.200 tu sĩ Phật giáo trên tổng số 2.000.000 người Việt thì trung bình cứ 1.600 người có một tu sĩ Phật giáo. Con số tự nó không đánh giá chân xác được tình trạng tôn giáo và chiều sâu hành đạo của các tu sĩ thuộc tôn giáo đó. Nhưng ít nhiều phản ánh được những nét tổng thể của mối quan hệ giữa quần chúng và tổ chức tôn giáo.
15/02/2017(Xem: 6543)
Đời thường trong các kiểu ăn cắp thì ăn cắp sách báo (hay cầm nhầm, hay mượn quên trả cũng vậy) có lẽ là loại ăn cắp dễ tha thứ nhất. Người ta tự cho là khi mượn tạm „chút kiến thức nhân loại“ thì không tội tình lớn như ăn cắp trái xoài trái ổi, ăn cắp con gà con vịt, cho đến ăn cắp tiền hay đồ dùng… Kể cả ăn cắp trái ớt cũng trầm trọng hơn là cầm nhầm một cuốn sách rồi… quên trả. Thú thật, trong đời tôi cũng từng đã có vài lần đến nhà bạn chơi, xem một cuốn sách thấy hay và đọc thích thú không dừng được. Bạn nói, thôi mang về nhà đọc tiếp. Vậy mà mấy năm sau sách vẫn cứ ung dung cắm rễ ở tủ sách nhà (!).
07/02/2017(Xem: 14761)
Bộ phim điện ảnh Phật giáo về cuộc đời và đạo nghiệp của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh do Hãng phim Sen Việt và chùa Vạn Đức phối hợp sản xuất.
01/02/2017(Xem: 6487)
Tiến sĩ Y Khoa Phan Giang Trí, 46 tuổi, trong vai trò đồng-trưởng-toán nghiên cứu tại Viện Nghiên Cứu Cancer Garvan ở Sydney, Australia, đang tìm phương cách chữa trị bệnh ung thư. Định cư tại Australia lúc 7 tuổi trong một gia đình mà cha mẹ và anh chị em đều là bác sĩ, dược sĩ và nghiên cứu y học, Tiến sĩ Phan Giang Trí đã tốt nghiệp bác sĩ Y Khoa hạng danh dự với Huy Chương Viện Đại Học Sydney, sau đó đạt học vị tiến sĩ và đến Hoa Kỳ để tiếp tục nghiên cứu hậu-tiến-sĩ trong lãnh vực microscopy. Ông đã phục vụ tại Viện Nghiên Cứu Ung Thư Garvan ở Sydney nhiều năm nay và cũng đã đạt được Giải Thưởng danh tiếng khoa học gọi là Eureka của The Australian Museum.
17/01/2017(Xem: 10234)
Hoa Kỳ thành kính cáo bạch: Sư Bà Thích Nữ Như Nguyện, thế danh Nguyễn Ngọc Hiếu, sinh năm Đinh Hợi, 1947, thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Ni Bộ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK, Trú Trì Chùa Xá Lợi, Thành Phố Rosemead, California, đã viên tịch vào lúc 5 giờ chiều ngày 15 tháng 1 năm 2017, nhằm ngày 18 tháng Chạp năm Bính Thân tại Bệnh Viện Beverly Hospital, Thành Phố Montebello, Miền Nam California, Hoa Kỳ, thế thọ 70, lạp thọ 48. - Lễ Nhập Kim Quan sẽ diễn ra vào lúc 9 giờ sáng, Chủ Nhật, ngày 22 tháng 01 năm 2017 (nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Bính Thân); - Lễ Trà Tỳ được cử hành vào lúc 3 giờ chiều Thứ Hai, ngày 23 tháng 01 năm 2017 (nhằm ngày 26 tháng Chạp năm Bính Thân), tại Peek Feneral Home, Westminster, California. Ngưỡng mong chư tôn Thiền Đức trong mười phương nhất tâm hộ niệm cho Giác Linh Sư Bà Thích Nữ Như Nguyện Cao Đăng Phật Quốc. Thành tâm khuyến thỉnh chư tôn đức Tăng, Ni, quý Cư Sĩ, các Chùa, Tự Viện, Niệm Phật Đường là thành viên của GHPGVNTNHK
01/01/2017(Xem: 8856)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương, thế danh Śūnyatā Phạm, sinh năm 1963 tại Bình Tuy, xuất gia năm 15 tuổi. Năm 1994, Ni sư tốt nghiệp Cử nhân Văn tại Sài Gòn. Ni sư du học tại Ấn Độ 10 năm, tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Đại học Delhi năm 2003. Năm 2005, Ni sư định cư tại Hoa Kỳ. Năm 2015, Ni sư tốt nghiệp Cử nhân Văn tại Đại học Riverside, California và đang theo học chương trình Cao học Văn tại trường cũng như đang là giảng viên của Học Viện Phật Giáo Việt Nam, Sài gòn. Ni sư lập tủ sách Bảo Anh Lạc, đã viết và chuyển ngữ hơn 20 tác phẩm Anh và Việt, 8 đĩa ca nhạc Phật giáo được xuất bản, phát hành từ năm 2004 đến nay. Năm 2000, sư đã thành lập chùa Hương Sen, Bình Chánh, Sài Gòn (Việt Nam) và năm 2010 - đến nay, sư đã khai sơn thành lập và là trụ trì chùa Hương Sen, thành phố Perris, tiểu bang California (Hoa Kỳ).
24/12/2016(Xem: 15336)
Thành Kính Tưởng Niệm Thượng Tọa Thích Đức Trí Trụ Trì Chùa Tam Bảo, Oklahoma, Hoa Kỳ
18/11/2016(Xem: 22392)
Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Bình, Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa đã thu thần viên tịch tối nay, 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn (22 đường 23 tháng 10, phường Phương Sơn, TP.Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
08/11/2016(Xem: 16160)
Trang Nhà Quảng Đức vừa nhận được tin viên tịch: Hòa thượng Thích Chơn Thiện, Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương, Viện trưởng Học viện Phật giáo VN tại Huế vừa viên tịch trưa nay, 8-11-2016 (9-10-Bính Thân) tại tổ đình Tường Vân (phường Thủy Xuân, TP.Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế). Hòa thượng Thích Chơn Thiện sinh năm 1942, đồng chơn xuất gia với Trưởng lão HT.Thích Tịnh Khiết tại tổ đình Tường Vân, từng du học Hoa Kỳ và tốt nghiệp Cao học về ngành Tâm lý giáo dục, tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Đại học New Delhi, Ấn Độ. Hòa Thượng cũng là Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa Phật giáo, Viện chủ thiền viện Vạn Hạnh (Q.Phú Nhuận, TP.Hồ Chí Minh), Trụ trì tổ đình Tường Vân (P.Thủy Xuân, TP.Huế)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]