Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 3: Gia Thế Và Thời Thơ Ấu Của Hòa Thượng Ðôn Hậu

25/12/201006:37(Xem: 8159)
Chương 3: Gia Thế Và Thời Thơ Ấu Của Hòa Thượng Ðôn Hậu

NHƯ ÁNG MÂY BAY

Cuộc đời của Đại Lão Hòa Thượng
THÍCH ĐÔN HẬU
Đệ tử Tâm Đức phụng sọan
Thất chúng môn đồ ấn hành 2010 USA

QUYỂN HAI:
HÒA THƯỢNG ÐÔN HẬU (1905-1992)
VÀ PHONG TRÀO PHỤC HƯNG PHẬT GIÁO


Chương 3: Gia Thế Và Thời Thơ Ấu Của Hòa Thượng Ðôn Hậu

Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu pháp danh Trừng Nguyên, pháp tự Giác Thanh, hiệu Ðôn Hậu, thuộc đời thứ 8, thiền phái Liễu Quán, thế danh là Diệp Trương Thuần. Hòa thượng sinh ngày 13 tháng Giêng năm Ất Tý (16-2-1905) tại làng Xuân An, tổng An Ðôn, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Tỉnh Quảng Trị phía bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía đông là biển Ðông Hải, phía tây là dãy Trường Sơn và nước Lào, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên. Thị xã Quảng Trị cách Hà Nội 570 km, cách Huế khoảng 62km, cách Sài Gòn hơn 1000km. Theo thống kê và phân bố hành chánh, tỉnh Quảng Trị hiện nay gồm 2 thị xã Ðông Hà và Quảng Trị, 7 huyện (quận), 67 thôn xã, diện tích 4,692 km vuông, dân số 557,121 người.

Thị xã Ðông Hà diện tích 76.26 km2, dân số 66,470 người.

Thị xã Quảng Trị diện tích 5.28 km2, dân số 15,487 người.

Huyện Vĩnh Linh diện tích 626.23 km2, dân số 90,142 người.

Huyện Gio Linh diện tích 481.67 km2, dân số 70,142 người.

Huyện Cam Lộ diện tích 351.99 km2, dân số 41,580 người.

Huyện Triệu Phong diện tích 350.90 km2, dân số 102,710 người.

Huyện Hải Lăng diện tích 498.72 km2, dân số 96,059 người.

Huyện Hương Hóa diện tích 1,179.97 km2, dân số 48,608 người.

Huyện Ða Krong diện tích 1,020.95 km2, dân số 15,917 người.

(Xem Lê Quang Tiềm: Quảng Trị Ðịa Lý đăng trong Kỷ Yếu Quảng Trị, 2000 tr. 94-97)

Huyện Hải Lăng, theo Phủ Biên Tạp Lục (1760) của Lê Quí Ðôn gồm có 5 Tổng: Hoa La, An Thư, An Dã, Câu Hoan, An Khương.

Tổng Hoa La gồm các xã Hồng Khê (nay là Bích Khê), Nãi Diễn, Tả Hữu, Hậu Lễ, Cổ Bưu, Phù Lưu, Dư Triều, Hậu Lễ, Long Hưng, Vệ Nghĩa, Xuân An, Vạn Long, Nà Nẫm.

Tổng An Thư gồm xã Mỹ Chánh, Hội Kỳ.

Tổng An Dã gồm các xã An Trung, Ðại Hòa, Quảng Ðiền, Vũ Thuận, An Lệ, Nhị Giáp, Duy Hòa, Giáo Liêm, Phụ Tài, Thanh Liêm, Quảng Lượng, Hiền Lương, Hàn Xá, Trúc Ðang.

Tổng Câu Hoan gồm các xã Trường Sinh, An Phúc, Hà Lộc, Lương Phúc, Miên Trạch, Ðỗ Phùng.

Tổng An Khương gồm các xã: An Khang, Ðại Nại, Trà Lộc, La Duy, Hương Vân, Anh Hoa, Tam Hữu, Duân Kinh, Thi Ông, Thượng Xá, Trâm Lý, Xuân Lâm, Mai Lộc, Phú Xuân, Mai Hoa, Mai Ðàn, Thượng Thôn.

Huyện Ðăng Xương (Triệu Phong) gồm có 5 Tổng: An Phúc, An Lưu, An Cư, An Ðôn, An Lạc.

Tổng An Phúc gồm các xã: An Phúc, Hòa Viên, Diên Phúc, Kim Giáo, Kim Lung, Ðan Quế, Hội Yên, Ðà Nghị, Ba Ðu, Phúc Kinh, Thượng An, Ðôn Ðiềm, Thâm Khê, Mỹ Thủy, Tân An.

Tổng An Lưu gồm các xã: An Lưu, Hương Liệu, Thượng Trạch, An Phủ, An Trụ, Ðồng Bào, Tài Lương, Thanh Lê, Mỹ Khê, Xuân Dương, Trung An, Phú Hải, Phú Toàn, Ba Lăng, Văn Phong, Gia Ðẳng, Thuận Ðầu, An Bôi, Tân An, Ngô Xá Ðông, Ngô Xá Tây.

Tổng An Cư gồm các xã: An Cư, Bồ Bản, Hà Bá, Linh An, Ðang Long, Lai Phú, Lễ Truyền, An Trạch, Nho Lý, Lưỡng Toàn,, Hạo Ly, Như Liễu, Mỹ Lộc, Tân Ðịnh, An Việt, Phúc Lê, Tường Vân, Văn Tường, An Tục, Phụ Lũy, Khang Vĩnh, An Toàn, Tân An.

Tổng An Ðôn gồm các xã: An Ðôn, Thượng Phúc, Phúc Toàn, Phù Áng, Trà Lễ, Lại Phúc, Vân An, Hà Xá, Ðại Áng, Lập Thạch,, Phương Lương, Phú An, Lăng Phúc, Ðiếu Ngao, Ðông

Hà, Ðông Vu, Y Bích, Bạch Câu, Cây Khế, Giang Hiếu, Hà Xá, Thiết Trường, Tử Chính, Thiết Tường, Hà Phường, Sơn Trạch, Ðơn Hàng, An Trang, Ngũ Giáp.

Tổng An Lạc gồm các xã: An Lạc, Phả Lại, An Bình, Phú Ngạn, Trúc Khê, Nhật Lệ, Thuận Ðức, Lâm Lang, Phi Hưu, An Thịnh, Bào Ðá, Trung Bác, Phả Lại, An Xuân, Phúc An, Khang Mỹ, An Bình, Khang Thái, Tân An, Ba Xuân, Cây Lúa, Bái Sơn, Thiết Trường, Cam Lộ, Thiên Xuân, Bố Chính, Quật Xá, An Sát.

NAMB-quangtriQuảng Trị có những địa danh quan trọng: Ðộng Cồn Tiên nằm trên ngọn đồi cao thuộc quận Gio Linh. Chiến khu Tân Sở thuộc vùng Cùa, huyện Cam Lộ được Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết xây dựng chuẩn bị chống Pháp. Ái Tử thuộc quận Triệu Phong, căn cứ đầu tiên của chúa Nguyễn Hoàng trên đường Nam Tiến, trên quốc lộ 1 cách thị xã Quảng Trị chừng 4 km. Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang gần chân núi Trường Sơn, thuộc làng Ái Tử, Quận Triệu Phong, được xây dựng vào thời Hậu Lê. Chùa Thiền Tâm ở xã Ðầu Kênh, huyện Triệu Phong do vua Thái Tông xây dựng, vua Minh Mệnh trùng tu. Chùa Long Phúc ở phường An Ðịnh, huyện Gio Linh trước làm miếu thờ Thái Tổ, vua Minh Mạng đổi làm chùa, cấp 10 mẫu ruộng và 3 người từ phu lo săn sóc. Chùa Cổ Trai ở xã Cổ Trai, huyện Vĩnh Linh, quê hương của Hiếu Khang hoàng hậu. Sau khi hoàng hậu qua đời dân trong làng lập miễu thờ, vua Minh Mạng đổi làm chùa. Ðền Thờ Ðức Mẹ La Vang cuối thế kỷ 18, cách thị xã Quảng Trị 4km, cách Huế 58km.

Về hình thể, Quảng Trị phía đông đồng bằng hẹp, phía tây là núi rừng Trường Sơn chiếm hơn hai phần ba diện tích đất đai. Từ bắc xuống nam có những ngọn núi Ðông Châu cao 1,254m, Ðộng Voi Mệp 1,701m, Ðộng Tou Troen 928m, Ðộng Ca Lư 710m, Phou Nhoi 690m, Giang Gro 771m, Ta Laou 821m, Cây Tre 485m, Ðộng Bà Lê 1,102m. Những sông chính của tỉnh Quảng Trị là sông Bến Hải, sông Cam Lộ và sông Thạch Hãn. Sông Bến Hải dài 75km phát xuất từ dãy Trường Sơn chảy ra biển ở Cửa Tùng. Sông Thạch Hãn hay sông Hàn, sông Quảng Trị phát xuất từ dãy Trường Sơn chảy qua quận Triệu Phong, đến quận Hương Hóa và Cam Lộ rồi đổ ra Cửa Việt. Phía tả ngạn có sông Hiếu Giang, Vĩnh Phước, Ái Tử. Hữu ngạn có sông Vĩnh Ðịnh. Sông Cam Lộ còn gọi là sông Bồ Ðiền, là con sông đào, nối sông Bến Hải và sông Thạch Hãn. Ngoài ra tỉnh Quảng Trị cón có những con sông nhỏ như Rào Quán, D Krong, Rào Vịnh, Mỹ Chánh, Nhung Giang, Trịnh Hin.

Bờ biển Quảng Trị dài khoảng 60km, bãi biển bằng phẳng, ngoại trừ vùng Cửa Tùng lởm chởm đá. Khí hậu Quảng Trị khá khắc nghiệt, với hai mùa mưa nắng. Mùa nắng từ tháng 3 đến tháng 7, có gió Lào thổi về rất oi bức. Mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 2, chịu ảnh hưởng gió bắc đổ xuống ào ạt gây lụt lội. Từ tháng giêng đến tháng 2 mưa phùn, gió lạnh.

Quốc lộ 1 và 9 là đường giao thông với các tỉnh khác. Quốc lộ 9 chạy từ Savannakhet qua Lao Bảo, Quảng Trị đến biển Ðông Hải. (Xem Tiến sĩ Lê Ðình Cai: “Ði Tìm Hình Ảnh Quảng Trị qua Ô Châu Cận Lục và Ðại Nam Thống Nhất Chí” đăng trong Kỷ Yếu Quảng Trị, 2000, tr. 9-18)

Khi Nhà Ðường cai trị Trung Quốc (618-907), đất Giao Châu trở thành đô hộ phủ, giáp giới Diễn Châu (Nghệ An ngày nay). Ðất Quảng Bình Quảng Trị thuộc Lâm Ấp. Năm 931 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, dành lại độc lập sau hơn 1000 năm bị đô hộ, thiết lập triều đại Ðinh, Lê, Lý, Trần.

Năm 1069 vua Lê Thánh Tôn dẫn binh đánh Lâm Ấp bắt được Chế Củ. Chế Củ dâng ba châu Ðịa Lý, Ma Linh và Bố Chánh (Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay) để chuộc mạng. Năm 1301 vua Trần Nhân Tông muốn thắt chặt tình hữu nghị giữa hai nước Chiêm Thành (Lâm Ấp) và Ðại Việt đã gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Vua Chiêm dâng hai châu Ô, Rý (Lý) để làm sính lễ. Châu Ô về sau đổi thành Thuận Châu gồm quận Triệu Phong, Hải Lăng của tỉnh Quảng Trị, quận Phú Lộc và Phú Vang tỉnh Thừa Thiên. Châu Rý sau đổi thành Hóa Châu gồm quận Ðại Lộc, Ðiện Bàn, Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam.

Dưới thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh, mùa đông năm Bính Ngọ (1558) Thái Úy Ðoan Quận Công Nguyễn Hoàng cùng gia tộc và một số binh lính gốc Thanh Hóa, Nghệ An và một số sĩ phu xuống thuyền xuôi Nam trấn đất Thuận Hóa. Sau ba ngày đến cảng Cửa Việt, ngược dòng sông Thạch Hãn, dừng chân tại sông Ái Tử, nay thuộc xã Triệu Ái, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, được quan quân và dân chúng các làng xã lân cận nghênh tiếp. Thôn Ái Tử gắn liền sự nghiệp vĩ đại của Nhà Nguyễn trong suốt hơn 300 năm.

Quảng Trị là cái nôi của phong trào Cần Vương chống Pháp của Việt Nam Quốc Dân Ðảng, của Ðại Việt Cách Mạng Ðảng, của Ðông Dương Cọng Sản Ðảng. Dân Quảng Trị từng chịu đựng nhiều cảnh thương hải tang điền. Cầu Bến Hải ở Hiền Lương phủ Vĩnh Linh, là ranh giới giữa hai miền Bắc Nam sau Hiệp Ðịnh Genève. Hàng nghìn dân chúng Vĩnh Linh phải bỏ nơi chôn nhau cất rốn di cư vào thị xã Quảng Trị năm 1954. Năm 1965 hàng rào điện tử McNamara trải dài từ Cửa Việt dọc theo sông Hiền Lương đến tận biên giới Lào Việt, vùng oanh kích tự do. Dân chúng Trung Lương phải di tản vào thị xã Cam Lộ. Năm 1972, những trận đánh tàn khốc dữ dội xảy ra dọc theo quốc lộ 9, trên 300,000 người nối đuôi nhau trên quốc lộ 1 từ Ðông Hà đến Mỹ Chánh được mệnh danh là Ðại Lộ Kinh Hoàng trong những ngày 25, 26, 27 tháng 4 năm 1972 làm mồi cho bom đạn.(Xem Lê Hữu Thăng: Quảng Trị Trong Tiến Trình Phát Triển và Xây Dựng Ðất Nước, đăng trong Kỷ Yếu Quảng Trị, 2000 tr. 54-61)

Thân phụ của Hòa Thượng Ðôn Hậu là cụ Diệp Văn Kỷ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn thị Cựu, mất sớm khi Hòa Thượng vừa lên 9 tuổi. Cụ Diệp Văn Kỷ là một thầy thuốc bắc nổi tiếng trong vùng. Cụ còn là Phổ Trưởng Phổ Liên Trì. Tuy nhà thanh bạch nhưng đạo đức, có lòng giúp người nghèo khó. Người trong vùng khi đau yếu đến nhờ cụ chữa trị, không có tiền mua thuốc, cụ vẫn vui lòng bốc thuốc cho họ mà không lấy tiền. Nhà của cụ ở gần bờ sông, nơi bà con trong vùng thường đắp mộ hai bên bờ. Khi nước lụt, nhiều ngôi mộ bị lở, xương người chết lộ ra mà không ai thâu lượm. Cụ thường đi nhặt những xương cốt ấy bỏ vào hũ đem chôn ở nơi cao hơn. Dân chúng trong vùng mến mộ cụ qua những hành động phước đức này. Cụ Diệp Văn Kỷ về sau xuất gia học Phật với tổ Hải Thiệu, có pháp danh là Thanh Xuân, tự Sung Mãn, đắc pháp với tổ Tâm Truyền, được ban pháp hiệu là Phước Ðiền, khai lập chùa Long An, Quảng Trị và kế thế trú trì chùa sắc tứ Tịnh Quang, Quảng Trị. Cụ rất giỏi nghi lễ. Trong giới đàn tại Ðà Nẵng, khi Hòa thượng Trí Thủ thọ đại giới, cụ được mời làm tôn chứng A xà lê.

Cụ Diệp Văn Kỷ trước khi xuất gia, có hai đời vợ: Vợ thứ nhất sinh được người con trai tên là Diệp Văn Hùng. Diệp văn Hùng lập gia đình có 4 con: 3 trai, 1 gái. Con trai đầu là Diệp Tâm Hoa, con trai thứ hai là Diệp Tâm Khai, về sau là Hòa thượng Trí Ấn, hiệu Nhật Liên, thành viên của Hội Ðồng Trưởng Lão thuộc Viện Tăng Thống, Giáo Hội PGVNTN, con trai út là Diệp văn Thuận. Con gái thứ ba là Diệp thị Chương lập gia đình với Mai Tôn Nghiêm, người có công xây cất khu chợ Nha Trang và bến tàu Nha Trang.

Người vợ thứ hai tên là Nguyễn thị Cựu sinh được 4 người con, 1 gái 3 trai. Con gái đầu tên là Diệp Thị Tý, lấy chồng sinh được 1 người con gái tên là Từ Thị Thí. Chồng mất sớm. Bà Từ Thị Thí hiện ở Ðông Hà lấy chồng sinh được 4 người con, 2 trai, 2 gái. Chồng mất sớm, bà Từ Thị Thí đi kháng chiến, không được kết nạp vào đảng cọng sản vì là con cháu của Hòa Thượng Ðôn Hậu. Người con trai thứ nhất tên là Diệp Trương Thuần, sau xuất gia pháp danh Trừng Nguyên, hiệu Ðôn Hậu. Người con trai thứ hai tên là Diệp Trương Cẩn, thường gọi là ông Thọ, qui y, pháp danh Trừng Hộ. Lập gia đình, có hai đời vợ:

Vợ cả có 3 gái, 1 trai. Con gái đầu tên là Diệp thị Thoại năm 1956 thành hôn với ông Trần Tường Châu, đệ tử của Hòa

Thượng Ðôn Hậu. Gia đình định cư tại Mỹ. Người con gái thứ hai tên là Diệp Bích Thủy lấy chồng làm bác sĩ. Người con gái thứ 3 tên là Diệp Thúy Nga, hiện ở Denver, Hoa Kỳ. Người con trai út tên là Diệp Thanh Trúc, đi tu theo thầy Nhất Hạnh, hoạt động cho trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, đã cùng 5 huynh đệ thọ nạn trong vụ trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội bị tấn công năm 1966.

Vợ kế có 2 người con, 1 trai, 1 gái. Con trai tên là Diệp Văn Trúc hiện ở Long Khánh, con gái tên là Diệp thị Chanh mới qua đời.

Cụ Diệp Văn Kỷ có lập một ngôi chùa ở làng Long Hưng, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị cách chùa Long An chừng 5 km ở hướng nam. Hòa Thượng Ðôn Hậu về sau có mua một ngôi chùa tên là chùa Ðông An, thôn Xuân An, xã Dương Biều, tổng An Ðôn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị ngày nay đổi là thôn Xuân An, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chùa Ðông An sau được đổi tên thành Long An (ghép từ chữ Long Hưng với Xuân An). Hòa thượng chỉ mua chùa chứ chưa được mua đất, vì vậy hàng năm phải đóng tiền thuê đất cho làng Dương Biều, cho mãi đến năm 1943 (năm Quí Mùi) mới mua được đất.

Chùa Long An có thời do ni sư Diệu Lý đến bảo quản. Chùa hiện nay thầy Hải Tạng làm trú trì, được trùng tu đại qui mô, trở thành một ngôi chùa trang nghiêm, một di tích lịch sử có phong cảnh đẹp tại Quảng Trị.

Năm 1985, đại đức Thích Hải Tạng, đệ tử của Hòa Thượng Ðôn Hậu, vâng lệnh thầy về Quảng Trị bảo quản chùa Long An. Ngày 14 tháng 4 năm 2007 đại đức khởi công đại trùng tu chùa được sự chứng minh của Hòa Thượng Thích Nhật Liên, thành viên Hội Ðồng Trưởng Lão, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, cháu ruột gọi Hòa Thượng Ðôn Hậu bằng chú ruột. Công việc trùng tu chùa Long An được trình bày trong Cẩn Bạch Thư:


Chùa Long An Xã Triệu Thượng,
Huyện Triệu Phong
Tỉnh Quảng Trị
ÐT: 0988.853560 * 0533.828257




Phật lịch 2550
Quảng Trị Ngày 14 tháng 4 năm 2007


CẨN BẠCH THƯ

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch: Chư Tôn Ðức Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức Tăng Ni

Kính thưa: Quý liệt vị Phật Tử, Thiện hữu tri thức xa gần:

Chùa Long An là một di tích lịch sử, kỷ niệm nơi sinh trưởng của đức đại lão Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu, đệ tam Tăng Thống GHPGVNTN.

Chùa nằm trên bờ phía bắc dòng sông Thạch Hãn, địa danh nổi tiếng của một thời lửa đạn kinh hoàng trên quê hương Quảng Trị trong chiến trận 1972.

Năm 1985, khâm thừa tôn ý của Hòa Thượng Bổn Sư, chúng con về đảm nhận chùa Long An, khi ấy chỉ là một khu vườn còn đượm vẻ tiêu điều với ngổn ngang hố hầm bom đạn. Mái chùa xưa chỉ còn là một căn nhà nhỏ được che lợp tạm để thờ trí tôn tượng đức Bổn Sư và chư Tổ cùng các hương linh tiền bối.

Năm 1986, chúng con mua lại một liếp nhà cũ đưa về dựng tạm lên làm chùa để có nơi lễ bái, tu học cho tăng chúng trong chùa và các Phật tử tại địa phương. Từ đó đến nay, chúng con vẫn luôn luôn mong mỏi làm sao có đủ duyên lành, để dựng lại một ngôi chùa tương đối khang trang, tương xứng với tầm cỡ của một ngôi Chùa Tổ đã có lịch sử hàng trăm năm, dù chỉ là khiêm tốn. Nhưng mãi đến nay, ngôi chùa được làm tạm đã bị dột nát, gãy đổ nhiều nơi. Trong khi đó chùa Long An lại nằm ở vị trí ven sông, thuộc vùng trũng thấp, thường trực tiếp hứng chịu thiên tai bão lũ, nên chúng con đã phải thường xuyên lo lắng vào mỗi lần nghe tin bão đến, lũ về.

Kính bạch chư Tôn Ðức,

Kính thưa liệt quý vị:

Giờ đây, nhìn lại 20 năm về bám trụ tại một làng quê nơi tỉnh lẻ, nhiều khi chúng con không khỏi ngậm ngùi, buồn tủi vì quá đỗi gian truân! Trừ những tấm lòng thương yêu, quí mến của những người dân quê, tuy nghèo khó về nhiều mặt, nhưng lại rất giàu niềm tin Tam Bảo, luôn luôn gắn bó với chùa; còn lại, chúng con đã phải đối mặt với không biết bao nhiêu chướng duyên, nghịch cảnh mà nhiều lúc gần như nghiệt ngã, đến phải than thầm:

Gió sớm hắt hiu cùng đất mẹ

Mưa chiều tê tái với non thiêng.

Nghiệp vận đạo đời, âu đành phận,

Sinh tử buồn vui, một lời nguyền!

Thế nhưng, với thời gian, cái gì rồi cũng qua đi. Duy chỉ có một tấm lòng với đạo pháp, với quê hương và nhất là đối với Hòa Thượng Bổn Sư thì vẫn còn đó, vẫn luôn luôn canh cánh, trở trăn... Và, cứ mỗi lần nghĩ lại sự kỳ vọng của Tôn Sư, khi đưa chúng con về làm Phật sự trên quê hương của Ngài, thì bao nỗi ước mong lại càng thêm ray rứt!

May thay, ngày nay có lẽ cơ duyên đã đến, thể theo nguyện vọng trong Ðơn Trình của chúng con ngày 14-11-2006, UBND tỉnh Quảng Trị đã có văn thư phúc đáp, đồng ý cho chùa Long An được nâng cấp, trùng tu. Thế là một ước nguyện mà đã suốt 22 năm trời chúng con đã từng hoài bão, kể từ khi đặt chân đến vùng đất Quảng Trị khó nghèo đã có cơ may thực hiện! Sau khi thỉnh ý và được sự tùy hỷ của chư Tôn Ðức cùng quí huynh đệ trong tông môn, lễ động thổ khởi công trùng tu tôn tạo chùa Long An đã được tổ chức vào ngày Kỷ Hợi - ngày 18 tháng tháng Giêng năm Ðinh Hợi tức là ngày 6 tháng 3 năm 2007.

Trong niềm vui mừng quyện lẫn với bao nỗi lo âu, chúng con mạo muội viết bức thư này cẩn bạch cùng chư Tôn Ðức, pháp hữu gần xa... để mong được tỏ lòng tùy hỷ, nâng đỡ cho chúng con trong Phật sự lớn lao này. Chúng tôi cũng rất trông mong sẽ được đón nhận những nghĩa cử cao đẹp của quí liệt vị Phật tử và chư vị thiện hữu tri thức, đồng bào giàu truyền thống tâm linh Ðất Việt đang âm thầm phát bồ đề tâm, hành bồ tát hạnh để hộ trì cho quê hương và đạo pháp.

Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo chứng minh và gia bị chư Tôn Ðức cùng quí liệt vị thân tâm thường an lạc, hội đủ thắng duyên để thành tựu quả vị bồ đề.

Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát

58

HT. Thích Nhật Liên Tỳ kheo Thích Hải tạng



NAMB-cualongan-1
Chùa Long An ngày nay, nhìn thẳng
(Ảnh chụp ngày 20 tháng 3 năm 2009)
NAMB-chualongan-2
Chùa Long An, nhìn xéo
(Ảnh chụp ngày 20 tháng 3 năm 2009)

13
Ngôi tháp thờ HT Thanh Truyền và những ngôi mộ gia đình
nằm bên phía tay trái của chùa
(Ảnh chụp ngày 20 tháng 3 năm 2009)
12
Ngôi Nhà Tổ
Di ảnh Hòa Thượng Ðôn Hậu, đệ Tam Tăng Thống Giáo Hội PGVNTN
(Ảnh chụp ngày 20 tháng 3 năm 2009)
15
Tam quan chùa Long An với Thầy Trú Trì Thích Hải Tạng
(Ảnh chụp ngày 20 tháng 3 năm 2009)
14
Tháp chuông trước sân chùa Long An
(Ảnh chụp ngày 20 tháng 3, năm 2009)
16
Sông Thạch Hãn trước chùa Long An
(Ảnh chụp ngày 20 tháng 3 năm 2009)
17
Chùa Linh Quang hiện nay không có thầy Trú Trì
tại thôn Trung Kiên, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị

Nếu đi dọc theo bờ sông phía tay trái cách chùa Long An độ chừng 500m sẽ đến thôn Trung Kiên, sinh quán của Hòa Thượng Trí Thủ, cố Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo, Giáo Hội PGVNTN, của đại lão Hòa Thượng Hải Ðức, Hòa Thượng Diệu Hoằng, Hòa Thượng Kim Tiên, Hòa Thượng Giác Lâm, nơi có từ đường dòng họ Nguyễn của Hòa Thượng Trí Thủ, Hòa Thượng Hải Ðức, từ đường dòng họ Hồ của Hòa Thượng Tâm Tịnh, nơi có chùa Linh Quang với bài thơ Nhớ Làng của Hòa Thượng Trí Thủ. Trước chùa có hồ sen. Chùa bây giờ là trụ sở của Khuôn Hội, không có người cư trú, không có thầy trú trì mặc dầu thôn Trung Kiên nổi tiếng là cái nôi của hàng tăng ni. Ðây là tình trạng chung hiện nay ở Việt Nam. Tăng ni nhiều nhưng không ai muốn sống ở thôn quê. Thôn quê Việt Nam, vùng Cao Nguyên bỏ ngỏ cho các phái bộ truyền giáo Thiên Chúa và Tin Lành.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8119)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8196)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5287)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37567)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6277)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6233)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5848)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5735)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 6002)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5529)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]