Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 1: Hòa Thượng Thích Tâm Tịnh (1868-1929), Bổn Sư Của Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu

25/12/201006:35(Xem: 6447)
Chương 1: Hòa Thượng Thích Tâm Tịnh (1868-1929), Bổn Sư Của Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu

NHƯ ÁNG MÂY BAY

Cuộc đời của Đại Lão Hòa Thượng
THÍCH ĐÔN HẬU
Đệ tử Tâm Đức phụng sọan
Thất chúng môn đồ ấn hành 2010 USA

QUYỂN MỘT:
HÒA THƯỢNG THÍCH TÂM TỊNH (1868-1928)
VÀ PHẬT GIÁO CUỐI THẾ KỶ 19, ÐẦU THẾ KỶ 20


Chương 1: Hòa Thượng Thích Tâm Tịnh (1868-1929),
Bổn Sư Của Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu


Hòa Thượng Thanh Ninh Tâm Tịnh là một trong 9 đệ tử xuất sắc, có tên là Cửu Tâm, của Ðại Lão Hòa Thượng Hải Thuận Lương Duyên, người đắc pháp với tổ Tánh Thiên Nhất Ðịnh, khai sơn chùa Từ Hiếu.

Hòa Thượng Tánh Thiên Nhất Ðịnh (1784-1847) người họ Nguyễn, sinh năm Giáp Thìn, 1784 tại làng Trung Kiên, tổng Bích La, huyện Ðăng Xương, tỉnh Quảng Trị, đồng niên xuất gia, theo học với Hòa Thượng Phổ Tịnh, thọ giới với Hòa Thượng Mật Hoằng chùa Thiên Mụ. Năm 1816 bổn sư viên tịch, ngài kế thừa chùa Báo Quốc. Năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) ngài được mời làm Trú Trì chùa Linh Hựu. Năm Minh Mệnh thứ 20 ngài lại được sắc phong làm Tăng Cang chùa Giác Hoàng. Ðến năm Thiệu Trị thứ ba (1843) ngài xin về hưu, lập Am An Dưỡng để chuyên tâm hành trì pháp môn niệm Phật. Ngài viên tịch ngày 7-10 năm Ðinh Mùi (1847), thọ 64 tuổi đời, 46 hạ lạp, đời 39 dòng Lâm Tế, đời thứ 5 của dòng Thiền Liễu Quán. Tháp 7 từng của ngài được xây tại chùa Từ Hiếu, gọi là An Dưỡng Tháp.

Am An Dưỡng sau khi ngài viên tịch được Thái Giám Viện kiến thiết thành chùa Từ Hiếu. Ngài có 41 vị đệ tử, trong đó có 8 vị xuất sắc:

1. Hải Thuận Lương Duyên, trú trì chùa Diệu Ðế, chùa Báo Quốc.

2. Hải Thiệu Cương Kỷ, kế thế trú trì chùa Từ Hiếu.

3. Hải Toàn Linh Cơ, trú trì chùa Tường Vân.

4. Hải Nhu Tín Nhậm, (sau cải thành Hải Nhu Tín, tại vì cữ húy Dục Tông Anh Hoàng Ðế) trú trì chùa Quảng Tế.

5. Hải Trường Pháp Lữ, trú trì chùa Túy Vân, Linh Hựu.

6. Hải Hoa Phát Ðạt, trú trì chùa Tịnh Quang, Quảng Trị.

7. Hải Trạch Thiền Hoa.

8. Hải Phong Vĩnh Mậu.

Hòa Thượng Hải Thuận Lương Duyên (1806-1892), trú trì chùa Báo Quốc, người đời thường gọi ngài là Diệu Giác Thiền Sư, người họ Ðỗ, sinh quán xã Bích Khê, tổng Bích La, huyện Thuận Xương, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ngài sinh năm Bính Dần (1806), đời Gia Long. Xuất gia năm 13 tuổi tại chùa Báo Quốc. Năm Minh Mạng thứ 11 (1840) ngài thọ cụ túc giới tại giới đàn Báo Quốc lúc ngài 34 tuổi, đời 40 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 6 dòng Liễu Quán, với Pháp danh là Hải Thuận, tự Lương Duyên, hiệu Diệu Giác. Năm 1849 ngài được cử làm trú trì chùa Diệu Ðế, năm 1859 được cử làm trú trì chùa Báo Quốc. Ngài đã trùng tu chùa Báo Quốc thành chốn tự vũ nghiêm trang, đồng thời ngài còn tham gia trùng tu chùa Kim Tiên, chùa Huệ Lâm. Năm 1886 ngài được nhà vua ân tứ một y cà sa vàng ngũ thể bá nạp. Ngài là vị sao sáng trong rừng Thiền, làm tỏa rạng dòng Thiền Liễu Quán. Năm Thành Thái thứ 6, 1891 mặc dầu đã 89 tuổi, ngài vẫn ra sức mở đại giới đàn tại chùa Báo Quốc. Ngài viên tịch năm 1892, hưởng thọ 90 tuổi, 52 hạ lạp. Tháp của ngài gọi là Diệu Quang Tháp được xây cất bên cạnh tháp của bổn sư. Ngài đã thế độ cho 40 vị đệ tử trong đó có 9 cao đồ, Pháp danh hàng chữ Thanh, Pháp tự chữ Tâm, trong Sơn Môn Huế gọi là Cửu Tâm:

1. Hải Hoạt Tâm Quảng (y chỉ pháp huynh), trú trì chùa Báo Quốc.

2. Thanh Minh Tâm Truyền, trú trì chúa Báo Quốc.

3. Thanh Tịnh Tâm Thể.

4. Thanh Phước Tâm An, tăng cang chùa Diệu Ðế, khai sơn chùa Thọ Ðức.

5. Thanh Ninh Tâm Tịnh, trú trí chùa Từ Hiếu, khai sơn chùa Tây Thiên.

6. Thanh Vân Tâm Thành, khai sơn chùa Từ Quang.

7. Thanh Liên Tâm Thiền, trú trì chùa Thuyền Tôn.

8. Như Thuật Tâm Minh (y chỉ sư Diệu Giác), trú trì chùa Kim Sơn.

9. Thanh Ðức Tâm Khoan, trú trì chùa Báo Quốc, chùa Thuyền Tôn.

Chín vị Tổ này được truyền tụng với danh hiệu Cửu Tâm theo cách xưng hô tôn kính của nhân dân xứ Huế và được Hàm Long Sơn Chí gọi là Cửu Diệp, nghĩa là Cành Lam Chín Lá hoặc Thiền Tông Chín Ngọn.

Hòa Thượng Thanh Ninh Tâm Tịnh thế danh là Hồ Hữu Vĩnh, sinh ngày 18-5-1868 (Năm Mậu Thìn, Tự Ðức năm 21), ở làng Trung Kiên, tổng Bích La, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 13 tuổi xuất gia tại chùa Báo Quốc, thờ ngài Hải Thuận, tự Lương Duyên, hiệu Diệu Giác làm thầy. Năm 1887 (Ðinh Hợi, triều Ðồng Khánh) thọ Sa Di, năm 1894 (Giáp Ngọ, Thành Thái thứ 6) thọ cụ túc giới, được bổn sư ban cho pháp danh Thanh Ninh, hiệu Tâm Tịnh và bài kệ:

Hà thanh ninh mật tứ phương an

Hữu vĩnh tâm tâm đạo tức nhàn

Tâm tợ bồ đề khai tuệ nhật

Bao hàm thế giới như thị quan

(Sông xanh tĩnh mịch bốn bề

Phẳng lặng tâm thường đạo tịch khê

Tâm tựa bồ đề soi tuệ nhãn

Bao trùm thế giới vượt sông mê)

Sau đó Hòa Thượng được bổn sư gửi đến chùa Từ Hiếu theo sư thúc Hải Thiệu Cương Kỷ học đạo. Khi ngài Hải Thiệu Cương Kỷ viên tịch, Hòa Thượng được bảo cử làm trú trì chùa Từ Hiếu và được ban chức Tăng Cang chùa Diệu Ðế. Năm 1902, để có nhiều thì giờ tu tập, Hòa Thượng nhường chức vị trú trì chùa Từ Hiếu cho Hòa Thượng Thanh Thái Huệ Minh, đến thôn Dương Xuân Thượng, Xã Thủy Xuân, huyện Hương Thủy cất am Thiếu Lâm, gọi là Thiếu Lâm Trượng Thất, để chuyên tu pháp môn tịnh độ. Năm 1911, Duy Tân năm thứ 5, Thiếu Lâm Trượng Thất đổi thành Tây Thiên Phật Cung, năm 1933 triều Bảo Ðại, Tây Thiên Phật Cung được ban Sắc Tứ trở thành Tây Thiên Di Ðà Tự.

Trong thời gian khai sơn Thiếu Lâm Trượng Thất, Hòa Thượng truyền thụ tâm ấn cho hàng đệ tử, trong đó có 9 vị mang danh chữ Giác thành Cửu Giác, kế thừa truyền thống Cửu Tâm của Bổn sư Hải Thuận Lương Duyên. Chín vị đệ tử mang danh chữ Giác thành Cửu Giác là:

– Giác Nguyên, kế thừa chùa Tây Thiên.

– Giác Tiên, khai sơn chùa Trúc Lâm.

– Giác Nhiên, tọa chủ tổ đình Thuyền Tôn, Ðệ Nhị Tăng Thống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

– Giác Viên, khai sơn chùa Hồng Ân.

– Giác Hải, khai sơn chùa Giác Lâm.

– Giác Bổn, trú trì chùa Từ Quang.

– Giác Ngạn, trú trì chùa Kim Ðài.

– Giác Thanh, hiệu Ðôn Hậu, trú trì chùa Diệu Ðế, chùa Linh Mụ, Ðệ Tam Tăng Thống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Hòa Thượng Tâm Tịnh rất có uy tín ở kinh đô. Vua Khải Ðịnh

Hòa thượng Thanh Ninh Tâm Tịnh (1868-1929)

(Thích Ðồng Bổn: Tiểu sử Danh Tăng Việt Nam, tr. 61)

thường hay để xe cộ, thị vệ, đi bộ một mình lên chùa Thiếu Lâm thăm Hòa Thượng. Nhân đại lễ Phật Ðản năm Giáp Tý (1924), Hòa Thượng đứng ra tổ chức đại giới đàn Từ Hiếu, được sự bảo trợ của vua Khải Ðịnh. Trong đại giới đàn này ngài là Ðàn Ðầu Hòa Thượng, với 450 giới tử, trong đó có 300 tăng ni thọ đại giới.

Mùa xuân năm Mậu Thìn (1928) ngày 6 tháng 4 Bảo Ðại năm thứ 3, nhằm ngày 25-4-1928, Hòa Thượng thị tịch, trụ thế 60 tuổi, 32 hạ lạp. Hòa Thượng ra đi, nhưng hình ảnh của ngài còn mãi trong lòng Phật tử Việt, nhất là Phật tử Huế. Thiền sư Viên Thành, trú trì chùa Tra Am, một thi sĩ tài ba đương thời đã sáng tác hai câu đối nói về đời ngài và sự mất mát không lường của chốn thiền môn:

Tứ thập nhất đại Lâm Tế chấn thiền phong,

đào chú công thâm, thùy thọ đương đầu hát bổng,

Ngũ thập cửu niên Diêm Phù thùy hóa tích,

trí bi nguyên mãn, nhi kim toát thủ hoàn gia.

(Lâm Tế đời bốn mươi mốt, chấn chỉnh thiền tông,

nung đúc công sâu, còn ai trao truyền đánh hét.

Diêm Phù thọ năm mươi chín, rõ lòng giáo huấn,

trí bi nguyện đủ, chừ đây buông thõng về nhà.)

Dòng Lâm Tế là một trong ba phái thiền chính, đó là Lâm Tế, Tào Ðộng và Hoàng Bá. Từ lục tổ Huệ Năng chùa Tào Khê qua Nam Nhạc, Mã Tổ, Bách Trượng, Hoàng Bá đến Lâm Tế Nghĩa Huyền tức thế hệ thứ sáu của tổ Huệ Năng.

Ngài Lâm Tế người Nam Hoa, Tào Châu, Hà Nam, họ Hình, xuất gia, hâm mộ thiền đời Ðường. Lúc đầu ngài đến Giang Tây tham học với ngài Hoàng Bá Hy Vân, sau theo học các ngài Cao An Ðại Ngu, Qui Sơn Linh Hựu, cuối cùng trở về thụ ấn với ngài Hoàng Bá năm Ðại Trung thứ 8, đời vua Tuyên Tông.

Sau đó ngài đến làm trú trì chùa Lâm Tế, Trấn Châu, Hà Bắc, thiết lập cơ pháp tâm huyền, tâm yếu, làm Lâm Tế Tông. Ðời có câu “Ðức Sơn Ðánh Gậy, Lâm Tế Quát Hét ”, dùng phương thức thoại đầu và tích trượng trong thiền tập. Ngài viên tịch tháng 4 năm Hàm Thống thứ 8, được ban thụy là Tuệ Chiếu Thiền Sư. Ngữ lục của ngài do môn nhân Tuệ Nhiên biên tập gọi là Trấn Châu Lâm Tế Tuệ Chiếu Thiền Sư Ngữ Lục.

Lâm Tế Lục, Hội Nguyên, quyển 11 chép: “Lâm Tế đến học đạo với ngài Hoàng Bá. Ba lần hỏi ngài Hoàng Bá thế nào là yếu nghĩa Phật Pháp, ba lần bị ngài Hoàng Bá lấy gậy gõ vào đầu. Lâm Tế giã từ ngài Hoàng Bá đến gặp ngài Ðại Ngu. Ðại Ngu hỏi Hoàng Bá dạy dỗ như thế nào. Lâm Tế thuật lại ba lần hỏi yếu nghĩa của Phật Pháp, ba lần bị ăn gậy mà không biết phạm lỗi lầm gì. Ðại Ngu bảo: Hoàng Bá đã có cách chỉ dạy, vậy đến ta làm gì. Nghe câu nói đó, Lâm Tế thoạt nhiên đốn ngộ.”

NAMB-ctqcth

Cổng Tam Quan chùa Từ Hiếu

(Võ Văn Tường: Việt Nam Danh Lam Cổ Tự, tr. 122)

Hòa thượng Thích Tâm Tịnh, bổn sư của Hòa Thượng Ðôn Hậu, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 41, lớn lên trong thời kỳ triều đình nhà Nguyễn đang dần dần suy yếu, là đệ tử nối pháp thứ năm của Hòa Thượng Diệu Giác Hải Thuận, trú trì chùa Báo Quốc. Sau khi đắc pháp, Hòa Thượng Tâm Tịnh kế vị Hòa Thượng Huệ Ðăng làm trú trì chùa Từ Hiếu trong nhiều năm. Tại đây Hòa Thượng một mặt trau dồi Tam Học, một mặt hoằng dương đạo pháp, trùng hưng ngôi Tam Bảo Từ Hiếu trở thành một tổ đình uy nghi, sầm uất.

Chùa Từ Hiếu tọa lạc tại thôn Dương Xuân Hạ, xã Thủy Xuân, Huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, cách thành phố Huế 5 km về phía tây nam, lúc đầu chỉ là một cái am nhỏ có tên là An Dưỡng Am do Hòa Thượng Tánh Thiên Nhất Ðịnh (1784-

NAMB-chuatuhieu

Chùa Từ Hiếu

(Võ Văn Tường: Việt Nam Danh Lam Cổ Tự, tr. 123)

1847), tổ thứ năm, thiền phái Liễu Quán xây dựng năm 1843. Cuối thời Thiệu Trị (1847) sau khi Hòa Thượng Tánh Thiên Nhất Ðịnh viên tịch một năm, tức vào năm 1848, các vị thái giám, cung giám đứng ra mua ruộng đất tái thiết chùa rộng lớn, trang nghiêm hơn, được vua Tự Ðức sắc ban Sắc Tứ Từ Hiếu Tự vì Hòa Thượng Nhất Ðịnh rất có hiếu với mẹ. Chùa được trùng tu nhiều lần năm 1865, 1894, 1931, 1962, 1971. Chùa Từ Hiếu hiện nay có một Phật Học Viện, được sự giúp đỡ của Thiền sư Nhất Hạnh, một danh tăng Việt Nam, xuất thân từ ngôi chùa này.

Năm Giáp Thìn 1904, sau 10 năm làm trú trì tổ đình Từ Hiếu, Hòa Thượng truyền giao lại cho Hòa Thượng Huệ Minh, để có thì giờ hành trì theo sở nguyện: Hòa Thượng thích chốn u nhàn, tịch mặc để tư duy kiến tánh và giáo hóa đệ tử kế thừa. Ngài đến làng Dương Xuân Thượng, cất một thảo am đặt tên là Am Thiếu Lâm, tiền thân của chùa Tây Thiên, một tổ đình nổi tiếng của đất thần kinh và của cả miền Trung nước Việt.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 9092)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 14626)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6767)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5403)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4914)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5317)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6138)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5978)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9426)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 5028)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567