Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thay Lời Tựa

25/12/201006:33(Xem: 7605)
Thay Lời Tựa

NHƯ ÁNG MÂY BAY

Cuộc đời của Đại Lão Hòa Thượng
THÍCH ĐÔN HẬU
Đệ tử Tâm Đức phụng sọan
Thất chúng môn đồ ấn hành 2010 USA

THAY LỜI TỰA

tamductranquangthuanSau khi Phật thành đạo, bài kinh đầu tiên giảng cho năm ông Kiều Trần Như là Kinh Chuyển Pháp Luân, thuyết minh đạo lý trung đạo. Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Ðề Bà Ðạt Ða, đức Phật cho biết một trong những tiền thân của Ngài có liên quan đến Ðề Bà Ðạt Ða và Ðề Bà Ðạt Ða là trợ duyên quan trọng giúp ngài tinh tấn hành trì bồ tát đạo. Vì vậy Ðề Bà Ðạt Ða, đối với Phật là một ân nhân và Phật đã thọ ký cho Ðề Bà Ðạt Ða về sau thành Phật hiệu Thiên Vương Như Lai. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật chỉ rõ bản thể của tâm để hành giả nương vào đó chuyển mê khai ngộ. Bồ Tát an trụ vào tâm thanh tịnh để cứu độ chúng sinh. Sử dụng hình tướng, danh sắc, nhưng tâm vẫn thường an trụ vô tướng. Thị hiện nhập niết bàn nhưng không bao giờ tịch diệt. Chu du khắp mười phương quốc độ mà vẫn giữ bình đẳng pháp tính. Ðối đầu với ma oán nhưng không bị ma oán chi phối, luôn luôn chan hòa từ ái.

Tôn Ngộ Không, nhân vật trong Tây Du Ký, khuấy nước chọc trời, bị giam trong Ngũ Hành Sơn, đối với Phật, với Bồ Tát Quán Thế Âm là nhân tuyển thích hợp giúp Ðường Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh. Trước cổng tam quan của nhiều ngôi chùa Việt Nam có hai bức tượng: tượng Ông Thiện, tượng Ông Ác. Ông Thiện mặt mày hiền lành, Ông Ác mặt mày hung dữ. Cả hai ông đều là hộ pháp. Cả hai ông đều hộ trì Tam Bảo. Phật Giáo không xem ai là kẻ thù và, với đạo lý trung đạo, đạo lý từ bi và giải thoát giác ngộ, Phật Giáo sẵn sàng dang tay đưa họ về với Phật.


Dưới thời nhà Ðường tại Trung Quốc có một nhà Nho tên là Hàn Dũ (768-824) nhiều thành kiến với Phật Giáo, phản đối vua Ðường Hiến Tông làm lễ rước xá lợi Phật, cho như vậy là mê tín dị đoan và làm hao tổn quốc khố. Nhưng sau được Ðại Ðiên Hòa Thượng hướng dẫn, đã quay về với Phật, lấy đạo giải thoát làm chỗ nương thân.


Tại Việt Nam đời Trần (1293-1341) Trương Hán Siêu khi soạn bài Ký Tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy và bài bia chùa Khai Nghiêm, đã chỉ trích Phật Giáo, đề cao Nho Giáo, nhưng vào cuối đời, ông làm bài thơ tả cảnh núi Dục Thúy rất nổi tiếng, được học giả Trần Văn Giáp dịch như sau:


Non xanh xanh vẫn như xưa
Du nhân đi mãi vẫn chưa thấy về.
Sóng in bóng tháp bồ đề,
Mở toang cửa động liền kề chân mây.
Ðời lênh đênh trước khác nay
Thân nhàn mới biết trước ngày lầm to...


Sau bao kinh nghiệm ruộng dâu bãi bể, cuộc sống phù trầm, Trương Hán Siêu trước hình ảnh giải thoát của đức Phật, trước nếp sống dung dị của các bậc chân tu, đã thấy rõ đâu là điểm tựa cần thiết cho cuộc đời.


Vào đầu thế kỷ 19 ở miền nam có một nhà khoa bảng nổi tiếng tên là Bùi Hữu Nghĩa(1807-1872) khi soạn bản tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên, có đôi chỗ chế nhạo các nhà sư, nhưng khi ông qua đời, các nhà sư mang bài vị của ông về chùa thờ, ngày đêm hương khói. Không có lòng bao dung thì không phải đạo Phật.


Ðầu thế kỷ 20 khi dân tộc ta đang tìm cách lật đổ gông cùm nô lệ, Phật tử, Tăng Ni, chùa chiền góp phần đấu tranh dành độc lập, dành quyền sống, dành công bằng, công lý. Năm 1943 bác sĩ Yersin người Pháp qua đời, hai chùa Long Sơn và Long Tuyền đem linh vị bác sĩ về thờ, hàng năm làm lễ cúng giỗ long trọng. Phật Giáo biết phân biệt chánh tà, không mù quáng vì màu da, tín ngưỡng.


Năm 1942 trong bài giảng Tam Thân Phậtcho Phật Tử Việt Kiều tại Savannakhet, Lào Quốc, khi cắt nghĩa về Hóa Thân, một trong Ba Thân (Pháp Thân, Báo Thân, Hóa Thân), Hòa Thượng Ðôn Hậu nói do tâm nguyện độ sinh mà chư Phật thường tùy duyên ứng hiện trong những hình hài khác nhau để hóa độ chúng sinh. Chúng ta may mắn được làm con Phật. Ngài mãi mãi ở bên cạnh chúng ta, dắt dìu, an ủi chúng ta, vì mắt phàm chúng ta không thấy, chứ không khéo ngài đang là người bạn cùng chúng ta đi trên con đường đạo. Nếu vậy chúng ta không thể nhìn đời bằng oán thù, nghi kỵ mà phải bằng từ ái, bao dung. Tất cả chúng sinh đều là Phật sắp thành, là bạn lữ, là thầy của chúng ta.


Năm 1947 khi quân Pháp tiến chiếm cố đô Huế, Hòa Thượng Ðôn Hậu bị bắt, bị lính Pháp ra lệnh đào hầm xử tử. Trời lạnh cóng xương, Hòa Thượng cố gắng đào, lòng không oán hận mà cầu cho những người bị bắt giam, bị cực hình bỏ được ác niệm, bỏ hận thù. Hòa Thượng nhìn những người lính Pháp, những người lính Việt theo Pháp bằng cặp mắt bao dung độ lượng.


Năm Tân Sửu, 1961 là năm Phật Giáo Miền Trung bị chính quyền đàn áp nặng nề nhất, nhưng trong bài giảng nhân Ðại Lễ Phật Ðản, Hòa Thượng cổ võ Phật Tử: “Muốn Phật Pháp trường tồn, chúng ta phải luôn luôn thực hành hạnh từ bi, hỷ xả, nhẫn nhục, tinh tấn, trong bối cảnh pháp nhược ma cường, giữa lúc nền đạo đức dân tộc đang bị phá hủy.”


Năm 1963 sau vụ Phật Giáo kỳ không được treo trong ngày đại lễ Phật Ðản tại Huế, Tăng tín đồ Phật Giáo đứng lên đòi bình đẳng tôn giáo bị tù tội, lăng nhục. Hòa Thượng Thích Quảng Ðức và nhiều Tăng Ni đã tự thiêu, vị pháp vong thân, người ta không cảm thông được sự khổ đau của người phải lấy thân mình làm bó đuốc soi đường, đã mỉa mai xúc phạm nặng nề. Phật Giáo không lấy điều đó mà oán hận.


Phật Giáo có chủ trương lật đổ chính phủ Ngô Ðình Diệm hay không, có chống Công Giáo hay không? Có theo đảng phái chính trị nào không? Trong Bản Phụ Ðính Tuyên Ngônnăm 1963, Phật Giáo trình bày rõ ràng quan điểm của mình:


1. Phật Giáo không chủ trương lật đổ chính phủ mà chỉ nhắm thay đổi đường lối của chính phủ đối với Phật Giáo.
2. Phật Giáo không xem ai là kẻ thù cả. Ðối tượng của cuộc đấu tranh tuyệt đối không phải Thiên Chúa Giáo mà là chính sách bất công tôn giáo.
3. Phật Giáo không chấp nhận sự lợi dụng của bất cứ ai. Phật Giáo từ chối sự lợi dụng nếu có, của cọng sản và của những kẻ mưu toan chức vị chính quyền.


Vừa khi tiếng súng Cách Mạng 1963 chấm dứt, sợ một số Phật Tử có phản ứng mạnh với những người của chế độ cũ đã từng có hành động sinh sát với họ, Hòa Thượng viết Lời Kêu Gọi Khẩn Thiết, nhờ quảng bá trên các đài phát thanh, các phương tiện truyền thông kêu gọi hàng Phật Tử phải nêu cao đức Từ Bi, Hỷ Xả, tuyệt đối không gây hấn, trả thù bất cứ ai. Phải luôn luôn phát huy đức tính khoan dung, từ hòa của người Phật Tử.


Người ta cứ tưởng Phật Giáo muốn tranh dành quyền bính. Trong Ðại Hội Phật Giáo Miền Trung sau năm 1963, Hòa Thượng trong bài diễn văn Khai Mạc Ðại Hội đã nói: “Căn bản của Phật Giáo Việt Nam là dân tộc chứ không phải chính trị và chính quyền... Phật Giáo không bao giờ từ bỏ cương vị tôn giáo của mình. Noi theo lời dạy của Phật, người Phật Tử trau dồi đức từ bi, nhẫn nhịn, dung hòa và học tập đức vô úy... Phật Giáo Việt Nam nỗ lực phát huy truyền thống tự phát triển tôn giáo mình không dựa vào cường quyền mà bằng sự thực hành giáo lý Phật.”


Tình dân tộc rạt rào trong huyết quản Phật Giáo Việt Nam. Vào những năm 1966-1968 Phật Giáo muốn nói lên tình tự ấy, nói lên ước vọng của dân, đã bị chính quyền đương thời, đàn áp không nương tay. Hòa Thượng vẫn chủ trương thuyết vương đạo, lấy lễ nghĩa làm giềng mối. Theo Tuân Tử, một Nho gia thời Chiến Quốc, qua hành động của người xưa, liệt kê ba phương thức điều hành đất nước gọi là Vương Ðạo, Bá Ðạo và Vong Quốc Chi Ðạo. Vương Ðạo lấy lễ nghĩa làm căn bản, “giết một người vô tội mà được thiên hạ cũng không làm”, Bá Ðạo lấy chữ tín làm nền tảng. Vong Quốc Chi Ðạo lấy lợi và quyền uy làm gốc. Chính quyền quân nhân, không lấy lễ nghĩa làm nền tảng, không giữ chữ tín, mà lấy quyền lực làm trọng, lấy “body count” làm chính sách. Họ không chịu lắng nghe tiếng nói của dân, cảm thông ước vọng và khổ đau của dân. Họ không hỏi tại sao những ông tướng do chính phủ gửi đến lại theo Phong Trào. Họ chỉ biết trấn át. Ðó là Vong Quốc Chi Ðạo.


Tuy bị đàn áp nặng nề, Phật Giáo cũng không hận thù, vay trả. Văn hóa Phật Giáo không phải văn hóa “Răng Cho Răng, Mắt cho Mắt”. Hòa Thượng đã trải tâm tư của mình trong bức thư gửi cho toàn thể tín đồ Phật Giáo Việt Nam, như Huyết Lệ Thư, như Lời Kêu Cứu, mong các thế lực thấy sự liên hệ mật thiết giữa Phật Giáo và Dân Tộc mà nương tay, đừng phá hoại Phật Giáo, nhưng lời kêu cứu ấy không khác tiếng kêu giữa sa mạc, bị nghiền nát trong gọng kềm lịch sử. Hòa Thượng tự hỏi không biết tại sao một chính thể mệnh danh cho dân, vì dân lại đàn áp dân. Những nhà lãnh đạo Phật Giáo bị chính quyền xem như kẻ thù, không có chỗ đứng. Phật Giáo bị gạt ra khỏi lòng Dân Tộc. Chính phủ quân nhân, rồi Ðệ Nhị Cọng Hòa theo Vong Quốc Chi Ðạo đã đưa Miền Nam Việt Nam vào tử lộ.


Sau ngày 30/4/1975 các nhà lãnh đạo Phật Giáo, trong đó có Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu, nguyên Giám Luật Giáo Hội Tăng Già Việt Nam, đệ tam Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã bị xuyên tạc với nhiều lời lẽ xúc phạm, hằn học. Chiến dịch mạ lỵ, bóp méo sự thật, sau ba chục năm vẫn còn tiếp tục. Người ta gọi đức Giám Luật, đức Ðệ Tam Tăng Thống, một ngôi vị tôn quí, lãnh đạo tinh thần của hàng triệu Tăng Ni, tín đồ Phật tử Việt Nam trong nước cũng như tại hải ngoại, của đại đa số dân Việt Nam, bằng những lời lẽ quá ư xúc phạm. Họ không để cho cửa thiền được chút tôn nghiêm, thanh tịnh.


Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu nếu có nghe những lời này, chắc ngài cũng vẫn hoan hỷ cười, cái cười hiền hòa, cởi mở của một nhà tu:


Phong lai sơ trúc,
Phong khứ nhi trúc bất lưu thanh.
Nhạn quá hàn đàm,
Nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh.


Gió rít qua rặng tre, gió lướt bay đi không để lại tiếng. Con chim nhạn bay ngang hồ nước lạnh, nhạn bay qua rồi không để lại bóng hình. Thế nhân đầy ngang trái trôi qua không để lại cho Hòa Thượng những vướng bận, ưu sầu mà chỉ Như Áng Mây Bay, tất cả rồi cũng trở về hư vô, tịch mặc.


Ngài chỉ bận tâm khi Phật Giáo bị phân hóa năm 1966 cũng như năm 1982. Nỗi quan tâm của ngài được biểu hiện trong Thông Ðiệp Phật Ðản, trong đó ngài cho thấy tai họa tại tâm chấp trước, phân biệt gây nên: “Bên này, bên kia, bỉ, thử, ngã nhân làm mất đi trí tuệ bát nhã, làm mờ tri kiến Phật”. Mối quan tâm này còn được diễn đạt một cách tích cực trong Tâm Thưgửi Tăng Ni Phật Tử Hải Ngoại, trong Thông Ðiệpnăm 1991 và trong Lời Di Chúctrước khi ngài viên tịch.


Hòa Thượng Thích Mãn Giác, Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ đã cực kỳ xúc động khi đọc Tâm Thư của Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu: “Sáng thứ Bảy 21 tháng 9 năm 1991, Ðại Hội Khoáng Ðại Kỳ 6 của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ đã khai mạc tại chùa Liên Hoa, thành phố Olympia, thủ phủ của Tiểu Bang Washington. Tâm Thư của Ôn Linh Mụ đã đến với Ðại Hội như Tiếng Gọi ân cần của người cha. Niềm xúc động đã dâng trào cả Ðại Hội, đã tới với những người khách chưa từng quen với sinh hoạt Phật Giáo. Tôi muốn nói đến ông George Bamer, đại diện chính quyền địa phương đã đến dự. Người đọc khóc, người nghe khóc, cả rừng người khóc. Nước mắt không biết từ đâu cứ ràn rụa tuôn ra làm cho tôi không thấy chữ để đọc. Riêng ông George Bamer vì không hiểu gì nên KHÔNG khóc. Nhờ KHÔNG khóc, ông đã thấy và vội rút khăn tay trên túi của ông trao cho tôi để lau nước mắt nước mũi khitôi đang cố đọc lá thư tâm huyết của Ôn. Bất chợt tiếng KHÔNG của ngài Triệu Châu xưa vọng về trong tôi. Cả một gánh nặng tình cảm và trách nhiệm nơi Tiếng Gọi của Ôn đặt lên Ðại Hội, đặt lên vai hàng Chúng Trung Tôn hốt nhiên thành nhẹ nhàng. Bởi trước mặt, tiếng KHÔNG vẫn sừng sững giữa chốn Thiền Môn, tiếng KHÔNG xóa mờ hết mọi ranh giới, nhân-ngã, thị-phi, bên này và bên kia. Con đường thống nhất đích thực là con đường hòa điệu. Và hòa điệu nền tảng là hòa điệu với KHÔNG. Kẻ nào hòa điệu với KHÔNG, thì hòa điệu với tất cả. Ngài Long Thọ đã nói đâu đó như thế.” (Los Angeles, Mùa Ðón Tết Nhâm Thân 92, Huyền Không, đăng trong tạp chí Phật Giáo Việt Nam, số 79, tháng 1, 1992 – Xuân Nhâm Thân).


Hòa Thượng Thích Huyền Quang nói: qua hai văn kiện Tâm Thư và Thông Ðiệp, ngài đã phá vỡ vòng vây hãm hiểm nghèo cho Giáo Hội, đã liên kết Tăng Ni Phật Tử Hải Ngoại với Tăng Ni Phật Tử trong nước. Sức mạnh gì có thể phá vỡ vòng vây hiểm nghèo? Ðó là tinh thần hòa hợp, tinh thần phá chấp, tinh thần hài hòa trung đạo của Phật Giáo.


Thầy Thích Phước Sơn trong bài Tinh Thần Cởi Mở Khoan Dung Của Ðạo Phậtđăng trong tạp chí Hoa Sen, số 21, tháng 1, 1994, kết luận: “Kinh nghiệm cho chúng ta thấy chỉ có những đạo nhân, túc học mới biểu lộ tấm lòng khiêm hạ một cách chân thành, cũng như chỉ có những bậc bi trí viên dung mới mở rộng cõi lòng bao dung tất cả.”


Cuộc đời của Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu được trình bày trong cuốn Như Áng Mây Bayphản ảnh nếp sống đạo hạnh, hiện thân của bao dung, độ lượng, của chân thành, bình dị, lồng vào sắc thái quen thuộc, thân thương của núi rừng Yên tử:


Ta đến với rừng thiêng Yên Tử
Gió trăng ơi xin hãy đón ta về


Ung dung trong cái hư ảo của cuộc sống phù du, vô thường, không bám víu, không bận bịu. Như Áng Mây Bay, bao phủ, che chở mà không hệ lụy.


Nếp sống đạo đối với Hòa Thượng là từ bi, độ lượng, là nếp sống mà người con Phật phải hết lòng noi theo, là mô hình mà thế giới hiện đại cần tái khám phá. Sống trong cái làng địa cầu (global village), chúng ta không thể nhìn đời bằng đôi mắt hẹp hòi, hạn chế mà phải học hỏi làm thế nào để sống, để hành xử, đề đối đãi với nhau như những người thân thuộc, vì thế giới ngày nay, quả địa cầu ngày nay của chúng ta ngày càng nhỏ, càng mong manh.


Như Áng Mây Bay
được trình bày trong Năm Quyển, Mười Sáu Chương.


– Quyển Một với 2 Chương nói về Ðại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Tịnh, bổn sư của Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu và tình trạng Phật Giáo đương thời.
– Quyển Hai với 5 Chương nói về thân thế của Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu lúc thiếu thời, thế phát xuất gia, tầm sư học đạo.
– Quyển Ba với 2 Chương nói sự nghiệp hoằng hóa của Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu trong phong trào chấn hưng Phật Giáo.
– Quyển Bốn: Thời Ðại Bão Táp với 3 Chương, trình bày những tai họa mà Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu cũng như Phật Giáo Việt Nam phải trải qua trong bối cảnh nghiệt ngã của đất nước Việt Nam từ ngày quân Pháp trở lại Ðông Dương sau Ðệ Nhị Thế Chiến, qua thời Ðệ Nhất Cọng Hòa và những năm tháng chuẩn bị cho nền Ðệ Nhị Cọng Hòa.
– Quyển Năm: Cư Trần Lạc Ðạo, diễn đạt cuộc đời của Hòa Thượng Ðôn Hậu từ ngày lên núi, ra Bắc, trở về cho đến ngày viên tịch. Ở đâu, trên núi, dưới biển, chỗ nào cũng là đạo tràng thanh tịnh. Ngài đã vận dụng phương tiện thiện xảo, dung thông mọi việc, cốt bảo toàn sự nghiệp của Như Lai và ngài ra đi như mây trôi, gió thoảng, như áng mây bay.


Chúng tôi vâng lệnh phụng soạn cuốn Như Áng Mây Bayđể đáp công ơn cao dày của vị bổn sư thân quí. Vị bổn sư hài hòa độ lượng, uyển chuyển tùy duyên theo đạo lý Hòa Quang Ðồng Trần của Tuệ Trung Thượng Sỹ, theo dấu chân Cư Trần Lạc Ðạo của Trúc Lâm Yên Tử, theo nếp sống đạo Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm của lịch đại tổ sư, quen thuộc, thân tình như lời nói dân dã: Ðất Vua, Chùa Làng, Phong Cảnh Bụtđể trang trải, viên dung tất cả...


Như Áng Mây Bay
là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người. Thời gian chúng tôi dành để biên soạn Như Áng Mây Baylà thời kỳ chúng tôi dần dần cảm nhận được cái an bình nội tâm, đạt được lòng tự tín khi đi trên bánh xe đời, thể nghiệm được sự tĩnh mặc giữa hai nhịp thở, lắng nghe được tiếng động của tâm linh và biết được cái tiềm năng cùng sự hạn chế của cuộc sống.


Như Áng Mây Bay
là thành quả đóng góp tích cực của những người môn đệ đức Ðệ Tam Tăng Thống, xuất gia cũng như tại gia, về tư liệu, công sức, tịnh tài. Ở đây chúng tôi xin đê đầu đảnh lễ VĂn Phòng Viện Tăng Thống, Giáo Hội PGVNTN đã cho ấn hành hạn chế cuốn Tiểu Sử Ðức Ðệ Tam Tăng Thống, kính cẩn đội ơn cố Hòa Thượng Thích Huyền Quang, xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, đã viết Lời Giới Thiệucuốn Tiểu Sử, đã soạn Nghi Dự Tiếncho buổi lễ Nhập Tháp.


Chúng tôi cũng xin thành thật cám ơn cụ Nguyễn Thúc Tuân dù bận thì giờ và không quen biết mà vẫn vui lòng tiếp và cung cấp cho chúng tôi những tư liệu quí giá về Hòa Thượng Ðôn Hậu suốt 10 năm từ năm 1968 đến 1978. Xin cám ơn ông Hồ Ðăng Thông, quí thầy Trí Tựu, thầy Hải Bình, thầy Hải Tạng đã vui vẻ san sẻ những dữ kiện về Ôn. Xin cám ơn cô Hồng đã cho tôi mượn cuốn băng, xin cám ơn huynh trưởng Bạch Hoa Mai, anh chị huynh trưởng Nguyễn Quốc Hưng, Gia Ðình Phật Tử giúp đỡ phân phối, xin cám ơn anh Trần Hoàng Phụng lo phương tiện chuyên chở, xin cám ơn gia đình ông bà Trần Thiện Ðường, gia đình ông bà Trần Tường Châu, tiện nội và các con đã yểm trợ tinh thần, giúp tịnh tài thực hiện cuốn Như Áng Mây Bay. Nguyện hồi hướng tất cả công đức cho toàn thể Phật Tử, cho toàn dân Việt, cho thập phương chúng sinh.


Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã mô tả Hòa Thượng Ðôn Hậu là nhân cách lý tưởng, “nhân cách mà khi dấn thân vào chợ đời trược ác nhưng tâm tư không hề bị ô nhiễm và nhiễu loạn, khi bị vây khốn trong vòng quyền lực thế gian nhưng vẫn an nhiên tiến bước theo đường hướng đã tự mình chọn lựa, mặc dù là con đường chênh vênh giữa sống và chết, vinh và nhục. Ðó là bậc Thượng Sĩ xuất trần mà không bỏ rơi trần gian khổ lụy. Ngài đã dày công kết dệt sợi dây Ðiều Ngự của Ba La Ðề Mộc Xoa làm giềng mối cho Tăng luân, duy trì và quảng diễn Tỳ Ni Tạng để cho mạng mạch của Chánh Pháp trường tồn. Với cốt cách uy nghi, đạo phong trác tuyệt, giới hạnh tinh nghiêm, Hòa Thượng là hóa thân của bài thuyết pháp thù thắng, linh động và hùng vĩ, là lời huấn dụ mẫu mực, trang nghiêm, tự tại cho hàng thất chúng đệ tử noi theo để tu tập, hành trì.


Với quần chúng Phật Tử Mông Cổ, Hòa Thượng được ngưỡng mộ như bậc Thánh. Hàng Phật Tử Việt Nam kính trọng Hòa Thượng như vị tôn sư. Với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng là Ðức Ðệ Tam Tăng Thống. Với chúng con, hàng thất chúng môn đồ đệ tử của Ngài, Hòa Thượng là sư phụ trong gia đình đạo, là Ôn, sống mãi trong lòng những người đệ tử thân thuộc, trong lòng con cháu của Ôn, mãi mãi không có phút nào xa cách.


Cầu mong Ôn từ bi chứng giám.
Cầu mong đức Phật soi sáng cho chúng con.


Vu Lan năm 2009
Ðệ tử: Tâm Ðức phụng soạn

thichdonhau-001012

Hòa thượng Thích Đôn Hậu thăm Mông Cổ (1969). (ảnh tư liệu TVHS)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 14999)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 8837)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20746)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6375)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8746)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5822)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19463)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9699)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6162)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6981)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]