Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm Niệm Tôn Sư - Hạnh Châu, Hạnh Kiên

28/09/201010:35(Xem: 4782)
Cảm Niệm Tôn Sư - Hạnh Châu, Hạnh Kiên

CẢM NIỆM TÔN SƯ

Đệ tử Tỳ kheo Thích Hạnh Châu – Thích Hạnh Kiên

Khể thủ kính dâng Giác linh Hòa thượng Tôn Sư.

Nam mô Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật, tác đại chứng minh.

Kính bạch: Chư tôn đức,

Kính thưa: Quý liệt vị,

Hôm nay, trong giờ phút thiêng liêng, trang trọng của buổi Lễ tiễn đưa Tôn sư lần cuối, thay mặt Môn đồ pháp quyến, chúng con xin được dâng lên Tôn sư đôi dòng tưởng niệm.

Ngưỡng bạch Giác linh Thầy,

Vậy là giờ phút cuối cùng cũng đã đến, chỉ trong một thời khắc ngắn ngủi nữa thôi, chúng con sẽ xa lìa Thầy mãi mãi. Thật đau đớn, xót thương, hụt hẫng, bàng hoàng! Dẫu là người xuất gia, hiểu rõ lẽ “vô thường tấn tốc, nhất sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh…”, nhưng chúng con vẫn không thể nào ngăn được dòng lệ khi đối trước kim quan Thầy, đảnh lễ nhục thân Thầy lần cuối trước khi Thầy quay gót về Tây.

Thầy ơi,

“Dẫu Thầy thượng phẩm thượng sinh

Trần gian vẫn mãi lung linh bóng Thầy”

Thầy đã như cây đại thụ mạnh mẽ và âm thầm che chở cho chúng con qua biết bao gian nguy khốn khó. Thầy đã tận tâm tận lực giáo dưỡng chúng con, từ những người sơ cơ trong biển học của chốn thiền môn, giờ trở thành những người con khôn lớn. Công lao trời biển của Thầy, chúng con không thể dùng ngôn từ nào tả cho hết được.

Hôm nay, đối trước Phật đài uy nghiêm, trước Giác linh Thầy tôn kính, chúng con xin bày tỏ lòng biết ơn vô bờ bến đối với Thầy, người Thầy cao cả, từ bi và mẫu mực trong lòng chúng con.

Nhớ lại thuở xa xưa, khi còn là một vị Tăng trẻ, vì tình thương bao la đối với một vùng đất quê chưa được thấm nhuần chánh pháp, Thầy đã một mình lặng lẽ về đây tạo lập thảo am Vĩnh Đức với từ tâm hoằng pháp độ sanh. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, bao nhiêu mùa mưa nắng đã đi qua trên mảnh đất khô cằn này, cây chánh pháp đã đâm chồi nảy lộc. Công đức ấy, hạnh nguyện ấy thật là khó có thể nghĩ bàn.

Nhớ những ngày chúng con mới chập chững bước chân vào Tu viện, Thầy đã thức khuya dậy sớm chăm sóc và dạy dỗ chúng con. Thầy lo cho chúng con từng miếng cơm manh áo, chăm nom từng giấc ngủ và luôn ưu tư thao thức về chuyện tu cũng như chuyện học của chúng con. Nhớ lại những ngày tháng xa xưa ấy, lòng chúng con không khỏi bồi hồi xúc động. Chúng con biết, trong suốt cuộc đời của mình, Thầy luôn tâm niệm kiên định và tận tụy với lý tưởng “tiếp Tăng độ chúng”, luôn ưu tư với vấn đề giáo dục và đào tạo chúng con trở thành những người con có ích cho Đạo pháp và dân tộc.

Vì lý tưởng “hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp”,Thầy đã mở rộng vòng tay tiếp nhận, chở che và dạy dỗ chúng Tăng khắp bốn phương trời. Tu viện trú xứ của Thầy không chỉ là nơi tu học của đồ chúng trong tông môn mà còn là một mái nhà bình yên của chư Tăng khắp nơi trên mọi miền đất nước. Tinh thần “vô ngại” đó, thầy đã khiến cho chúng con càng hiểu và cảm phục hơn về tấm lòng rộng mở và bao dung không bờ bến của một con người suốt đời gắn liền với hai chữ PHỤNG SỰ.

Ngưỡng bạch Giác linh thầy,

“Hạc vàng Thầy cưỡi về Tây

Còn nghe Vĩnh Đức lời Thầy vọng vang

Kính dâng một biến kinh vàng

Cho nhân sinh mãi chứa chan đạo tình”

Nay Thầy đã thong dong cưỡi hạc về Tây, để lại trong lòng chúng con biết bao nỗi xót thương, tiếc nuối. Thế là từ nay, chúng con không còn được nghe những lời dạy dỗ đầy minh triết và yêu thương, không còn thấy được ánh mắt từ hòa mà uy nghiêm của Thầy; không còn được gần gũi bên người Thầy đáng kính, từ hòa nữa. Sự mất mát đó, đối với hàng đệ tử chúng con là quá lớn, không gì có thể bù đắp nổi. Và cũng từ nay, trong khu rừng Phật Pháp đã vắng bóng một cây đại thọ vững chãi, thâm nghiêm.

Giờ chia ly sắp đến, dù biết Thầy ra đi khi trong lòng vẫn đang nặng mối ưu tư về chí nguyện hoằng pháp độ sanh và đào tạo Tăng tài vẫn còn ít nhiều dang dở; nhưng hôm nay đây, trước sự chứng minh của chư Phật, trước Giác linh Tôn sư, trước sự chứng minh của Chư Tôn thiền đức Tăng Ni, chúng con nguyện sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành những tâm nguyện cao cả của Thầy.

Kính bạch: Chư tôn đức

Kính thưa: Quý liệt vị.

Tang lễ Thầy của chúng con được viên mãn đến ngày hôm nay trong không khí long trọng và trang nghiêm là nhờ sự tận tình của Ban tổ chức, của Chư tôn Giáo phẩm HĐTS, Chư tôn đức các BTS, Chư tôn đức Tăng Ni các tự viện trong và ngoài tỉnh, chư đạo hữu Phật tử gần xa. Những thâm ân này, môn đồ pháp quyến chúng con xin khắc cốt ghi tâm và xin thành tâm cầu nguyền hồng ân Tam bảo gia hộ Chư tôn đức pháp thể khinh an, Phật sự viên thành. Chúng tôi xin cảm niệm tri âm chư liệt vị Phật tử gần xa, kính chúc chư vị thân tâm thường an lạc, bồ đề tâm tăng trưởng để mãi hoài là người Phật tử thuần thành trong chánh pháp của đức Như Lai.

Thành kính tri ân Chư tôn đức và cảm ơn chư liệt vị.

Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7152)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4202)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4825)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5592)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3815)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5243)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5319)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12958)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11524)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567