Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điếu văn Tưởng niệm của Môn đồ Đệ tử - Thích Hạnh Tuệ

28/09/201010:35(Xem: 5559)
Điếu văn Tưởng niệm của Môn đồ Đệ tử - Thích Hạnh Tuệ

HT_Thich_Quang_Tam_1

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

Hàng đệ tử chúng con cung thủ, phủ phục đê đầu đảnh lễ Giác linh Thầy,

Kính lạy Thầy,

Hôm nay, giờ đây, một nỗi đau quặn thắt đang ngự trị giữa cõi lòng của hàng thất chúng đệ tử chúng con.

Bóng thời gian xiêu đổ, mờ nhạt cuối trời xa

Thầy ung dung quay gót, nhẹ ngang chốn Ta Bà

Kể từ nay, chúng con đã vĩnh viễn mồ côi Thầy Tổ.

Kể từ nay, thất chúng sẽ mãi hoài quạnh vắng Tôn sư.

Giữa cuộc đời vô tận những trớ trêu, chúng con biết nương ai để thiện thệ qua bờ hạnh phúc:

Với đôi tay giữa hư không, cố tìm nơi bám víu, thấy mênh mong những mây xám vô tình,

Thỏng đôi chân trong dòng đời, quyết kiếm bờ neo đậu, nhìn bao la chỉ cỏ úa hững hờ.

Hạnh nguyện tiếp Tăng, đâu kể gian lao, Thầy một thân một mình ra công giáo dưỡng,

Hoài bão độ chúng, chẳng từ khó nhọc, Thầy một bóng một hình bỏ sức chăm nom.

Đau đáu nỗi niềm, dạy sớm thức khuya, còm cõi chiếc thân rệu rã,

Dáo dát ưu tư, quên cơm bỏ thuốc, mảnh khảnh chiếc bóng lẻ loi.

Nhớ ngày nào, như vừa mới đây thôi, Thầy vẫn còn chăm chút chúng con từng miếng ăn giấc ngủ: xin gạo từng cân nuôi chúng, khi chúng Tăng khắp nơi về đây lưu trú học hành; đắp lại chiếc chăn cho chúng, trong mùa mưa lạnh lẽo khi chúng con yên giấc ngủ nồng. Cơm sáng, trưa, chiều Thầy đều đi cùng đại chúng để khuyến tấn bảo ban. Nhổ cỏ, quét sân, lau phòng ở, lau nhà vệ sinh… Thầy giản đơn, mộc mạc như người mẹ tận tụy nuôi đàn con thơ trẻ. Đã không biết bao nhiêu lần Thầy đi vay tiền cho chúng con đóng tiền học phí. Không than một lời, không trách một câu, lấy sự chăm sóc – dạy dỗ đàn con làm niềm vui trong lẽ sống. Vỗ về, an ủi, nhắc nhở, rầy la, xử phạt… khi chúng con phạm phải sai lầm; khích lệ, động viên, khuyến tấn, khen thưởng… khi chúng con chuyên tâm tu học.

Thầy là mẫu người: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Thầy chỉ dạy chúng con từng li, từng tí trong cách ăn, thói ở giữa cuộc đời. Giáo dục chúng Tăng bằng những tinh hoa chắt lọc từ những Phật học đường, Phật học Viện mà Thầy đã trải qua. Thầy sửa cho chúng con từng lời xướng tụng, thưa thỉnh… để làm hành trang mai này hoằng hóa chúng nhân. Thầy lập Nội qui, lập Thanh qui để gìn giữ giềng mối thiền môn quy củ. Với tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến, Thầy thiện thệ qua bẫy đời giăng bủa chẳng nao nung. Khế lý, khế cơ nắm trong tay tùy duyên độ chúng. Tùy thời, tùy thế giữ trong lòng uyển chuyển đối nhân. Đạm bạt một đời để chăm lo cho hạnh phúc tha nhân, còn tấm thân thì gầy guột, héo mòn, bệ rạt. Thầy không ngại nắng mưa, gió sương, khuya sớm - cô thân, lẻ bóng, độc hành làm việc vì chúng con còn quá nhỏ không thể sớt chia. Đã bao lần Thầy dạy chúng con, trời đất vô cùng phải vững chải bước đi. Mỗi bước chân qua phải mang hương hoa cho cuộc sống. 20 năm, 30 năm hay 100 năm cũng trở thành vô nghĩa, nếu như cuộc đời này con chỉ sống cho con.

Thầy ôi!

Hôm nay đây, chấp đôi tay nghĩ nhớ lại dòng thời gian qua hun hút. Tuổi trẻ của chúng con nơi Tu Viện là cả một bầu trời kỷ niệm của thân thương. Dẫu bụi thời gian có phủ mờ đi cuộc sống vốn vô thường, nhưng ký ức vẫn rạng ngời không hanh hao, tỳ vết. Chúng con thật tệ, đã có biết bao lần biếng học, mê chơi, ham ngủ, trốn tụng kinh, lười chấp tác…; để rồi qùy quả đường, lạy sám hối, phạt hành đường… cũng là chuyện đương nhiên. Ước chi giờ này nhận được từ Thầy cái tát tai, để ấm lại cõi lòng đang lạnh giá. Thầy rầy, thầy la, thầy hiện thân Đại sỹ để chúng con nên người đứng vững giữa nhơn gian. Chúng con còn nhớ như in, những tháng năm chúng Tăng Tu Viện đông đến 100 vị. Phòng ở chật chội, nên nắng nóng rồi mưa ẩm. Những con rệp được sinh sôi nẩy nở sống tự do giữa những kẻ ván của giường nằm. Chúng con còn nhớ những luống rau muống, rau dền, đậu bắp, dưa leo… cứ mơn mởn lớn lên bởi được tưới từ phân của Đại chúng; bay mùi khắp nơi, nhưng không sao, sáng tưới, tối ra hái trộm chế mì… Kính bạch Thầy, những kỷ niệm này giờ kiếm ở đâu ra. Cực khổ của bây giờ sao bằng Thầy trong những thập niên về trước. Đối nội, đối ngoại, tạm trú, tạm vắng… ôi thôi khổ tấm thân Thầy.

Còn nữa, gầy dựng nền giáo dục từ trong Tu viện. Thầy đã mở các lớp bổ túc văn hóa cho tất cả Tăng Ni sinh và bà con khắp vùng đến học. Thỉnh mời giáo sư đến đây để giảng dạy, và khi đã tốt nghiệp ở nơi đây cũng được chính thức cấp bằng, để rồi mọi người có thể tiếp tục học những chương trình giáo dục cao hơn trong các trường khác. Thầy là người tiên phong xây dựng nền móng cho lớp sơ cấp Phật học mà ngày nay mô hình này đã nhân rộng ra khắp nơi trong nước.

Cả cuộc đời Thầy là chuỗi dài của sự thầm lặng hi sinh. Giáo dục dưỡng nuôi bao lớp chúng Tăng khắp mọi niềm xứ sở. Đứa đến, đứa đi, đứa hữu duyên, đứa bạt phước… Thầy mở rộng vòng tay, không một chút nề hà.

Kính ngưỡng Thầy,

Chiếc thân gầy, nhưng sức lực oai hùng chất ngất,

Đôi mắt sâu, nhưng ý chí cao vợi ngút ngàn.

Noi gương chí nguyện của Thầy, chúng con nguyện tiếp bước Thầy để Tông môn vĩnh chấn, Tổ ấn trùng quang. Đệ tử lớn chúng con đây sẽ chăm lo cho đàn em ăn học. Giữ chí nguyện xuất gia, giữ gìn truyền thống tu – học nơi Tu viện, tận tụy cùng anh em chăm lo ngôi nhà chung Tổ đình Vĩnh Đức.

Thầy đã được sinh ra và lớn lên trên vùng đất miền Trung, gian nan, khốn khó, Thầy đã hiểu, đã thương cho xứ sở của quê mình. Mờ xa đằng kia là núi Ấn, núi Bút, sông Trà, sông Vệ… yêu thương, nơi đã từng ung đúc cho sự trưởng thành của biết bao bậc danh Tăng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam và là nơi lưu xuất của bao bậc hiền tài, hào kiệt… Mảnh đất miền Trung quanh năm với nắng quái, mưa thù, lụt hờn, lũ oán; thiên nhiên càng khắc nghiệt bao nhiêu, con người càng có ý chí vươn dậy bấy nhiêu. Từ cái khổ, cái khó đã cho Thầy đức tính hy sinh, kham nhẫn; từ cái nghèo, cái lo đã cho Thầy tấm lòng độ lượng, bao dung.

Ngày trước, nơi Cổ lũy cô thôn heo hút, một ngôi làng nhỏ ven sông, chùa Từ Lâm mộc mạc, đơn sơ nằm sâu trong những tán cây trên triền đồi Phú Thọ. Những nền cũ mục đổ trên đỉnh đồi là dấu tích một thời huy hoàng mà đã được vua Bảo Đại sắc phong “Sắc Tứ Tổ Đình Từ Lâm”. Trải qua bao cuộc thăng trầm dâu bể nắng sớm, mưa chiều, gió tạt, sương pha, những phế tích hoang tàn đã bạt thết rong rêu, không kẻ trông nom, thiếu người lui tới. Thầy đã về đây cùng chư huynh đệ trong Môn phong gầy dựng lại từ cái không còn gì để mất. Cho đến nay, Tổ đình Từ Lâm đã ngự trị ở trong lòng của hầu hết Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử khắp vùng Quảng Ngãi.

Kính bạch Thầy,

Mai đây, cuộc hành trình của những đứa con Thầy sẽ bủa ra trăm hướng, và sẽ chẳng còn khó khăn nào nữa có thể làm nhục ý chí trượng phu mà Thầy đã ung đúc, tác tạo cho đâu. Thầy đã từng nhắn gởi chúng con rằng: “Bỉ ký trượng phu ngã diệc dĩ”(Kia trượng phu ta cũng trượng phu). Ý chí, nghị lực ấy đã tiếp cho chúng con sức mạnh để vượt qua những cơn bĩ cực của thế thái nhân tình.

Giờ đây,

Thầy đi rồi, Trượng thất đìu hiu, gió lộng vầng trăng tê tái,

Thầy đi rồi, Thiền đường quạnh vắng, lá rơi mặt đất não nùng.

Thầy đi rồi ! Giảng đường bặt tiếng phạm âm, Thích chúng gục đầu buồn tủi,

Thầy đi rồi ! Chánh điện lặng lời phục nguyện, Môn đồ nuốt lệ sót xa.

Chúng con,

Đôi mắt rưng rưng, quỳ thấp đôi chân kính lạy, Giác linh Thầy Phật quốc cao đăng,

Đôi mắt rưng rưng, chấp cao đôi tay khấn nguyện, Giác linh Thầy trực vãng Lạc bang.

Kính thương Thầy vô hạn,

Chúng con cung kính đảnh lễ kính Thầy.

Kính nguyện giác linh Hòa thượng thùy từ nhả giám.

Nam Mô Tự Lâm Tế Chúc Thánh Tông Tứ Thập Nhất Thế, Sắc Tứ Từ Lâm Tổ Đình Phú Pháp, Khai Sơn Vĩnh Đức Tu Viện Đường Thượng, Pháp Húy NHƯ HẢO, Tự Thượng GIẢI Hạ TÂM, Hiệu AN ĐỨC, Đạo Hiệu QUẢNG TÂM, LÊ CÔNG Hòa Thượng Giác Linh.

Con đệ tử Thích Hạnh Tuệ cúi xin chấp bút.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 8431)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8507)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10191)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14106)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8265)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 16889)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11889)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16607)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12747)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
03/08/2014(Xem: 6835)
Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày. Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự. Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc). Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tô
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]