Tự tại, thong dong trong khung viên Ấn Quang Thống Nhất
Sự viên tịch Hòa Thượng Thiện Hoa, con được hầu quan, tiễn đưa chí thiết
Nhập Vô Dư của Ngài, con chỉ hướng vọng về Huế xa xôi
Đến hôm nay, 39 năm theo vận mệnh nổi trôi
Con xin chân thành mượn nét bút viết dâng lên
Tưởng niệm, đảnh lễ, tôn vinh Ngài Đệ nhất
Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Kế thừa lịch sử Phật Giáo 2000 năm, bất tuyệt
Hòa cùng lịch sử Dân tộc 5000 năm, trường tồn
Vô trụ thị trụ, vô thường thị thường
Vàng càng thêm sáng, sắt càng thêm son
Dấu tích xa xưa, bừng bừng tỏ rạng
19 tuổi thọ Cụ Túc về trụ xứ phát nguyện
Mỗi một chữ lạy một lạy, Bộ Vạn Phật ba năm liền
Thì hành trạng và cuộc đời Ngài
Làm sao không vời vợi oai đức thiêng liêng
Như Thanh Thái Hòa Thượng Bổn Sư ấn tâm phú pháp
“Trừng Thông tâm pháp bổn đồng nhiên
Phó nhữ Chân Thường đạo chí kiên
Phi hữu phi vô phi sở kiến
Tịch nhiên khai ngộ chủ nhơn tiền”
Ngài xuất hiện ra đời khi thời thế đảo điên
Đạo Pháp cuối thời kỳ Pháp thuộc ngửa nghiêng
Mà Dân Tộc cũng chông chênh giữa sóng triều XANH - ĐỎ
Tiếng nói của lương tri cơ hồ bỏ ngỏ
Tiếng nói của tự tình tim thắt ruột đau
Đỏ - Xanh, cứ thế lên màu
Xanh - Đỏ tranh đoạt nát tàu quê hương
Nát từ thôn dã phố phường
Nát vào tận chốn nghiêm đường uy linh
Cạn tàu ráo mán tơ tình
Chùa chiền dậy sóng rêm mình trầm kha
Còn chi quốc quốc gia gia
Còn chi non nước cửa nhà Việt Nam
Họ đã ra tay hạ Màu Cờ Ngũ Sắc
Họ đã ra tay giữa Mùa Phật Đản uy nghiêm
Tăng tín đồ Phật Giáo
Hai tay không, dùng tấm thân, làm giậu làm khiên
Máu đổ, xương rơi, ngã gục giữa dùi cui súng đạn
Chư Thánh Tử, chết vì Đạo, để cho Đạo còn sống
Chư Thánh Tử, chết vì Đạo, để đánh thức bạo quyền
Họ bảo rằng : Ba bi kieu (barbecue), thịt nướng, Thầy chùa điên
Bị Cộng giật, Cộng mua, Cộng sai, Cộng khiến
Đêm 20 tháng 8 năm 1963
Họ ập vào Xá Lợi, hốt cho trọn tàu, đoạn tuyến
Ngài cũng mang thương tích dưới đài sen
Cũng tù, cũng tội, chốt khóa như nêm
Phật Giáo đâu có làm gì
Phật Giáo chỉ đòi hỏi nguyện vọng
Tự do và bình đẳng tôn giáo
Trong lúc Phật tử, Tăng Ni, và mọi cấp lãnh đạo
Cửa ngục tù vẫn kín mít lặng câm
Thì ngoài kia, dân quân tướng tá dị khẩu đồng âm
Cùng dõng dạc đứng lên và xóa tan chệ độ
Phật Giáo vô can, Phật Giáo không chủ trương thế đó
Phật Giáo vô can, Phật Giáo không vấy máu hận thù
Cửa thiền môn, ngàn đời, vẫn tịch tịnh thiên thu
Người con Phật, ngàn đời, vẫn nhu hòa nhẫn nhục
2000 năm Phật Giáo, đạo từ bi thắm thiết
5000 năm Dân Tộc, nền văn hiến đắp xây
Ngài đã tận tâm tận lực cống hiến miệt mài
Hành trạng và cuộc đời niêm hoa vi tiếu
Dẫn thỉnh sư Giới đàn Từ Hiếu
Mở Trung Đẳng Tường Vân
Khai, giáo, dưỡng ân cần
Giám đốc đạo hạnh Cao Đẳng Tường Vân, Báo Quốc
Đào tạo những bậc tăng tài lỗi lạc kiệt xuất:
Thiện Hoa, Thiện Hòa, Hành Trụ, Trí Tịnh, Thiện Siêu,…
Thạc đức thạch trụ rạng danh lịch sử chỉ điều
Ngược thời gian khó tìm, xuôi thời gian khó sánh
Cương vị của Ngài, vũ trụ ngân hà xao xuyến:
Chứng minh đạo sư An Nam Phật Học
Pháp Chủ Trung Việt Phật Giáo Tòng Lâm
Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam
Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Thế kỷ hai mươi, tôn xưng là Tăng Thống Đệ Nhất
Vốn đã có từ mười thế kỷ trước
Đinh Tiên Hoàng Đế sắc phong Khuông Việt Quốc Sư
Mười thế kỷ sau, Tăng Tín đồ suy tôn thánh đức nghiêm từ
Ngài tọa thị như Phật Giáo 2000 năm tọa thị
Công hạnh một đời, băng ngàn thế kỷ
Công đức một kiếp, soi sáng thiên thu
Như vũ trụ lồng lộng với thái hư
Như ngân hà mênh mang cùng trụ vũ
Năm 1972
Ngài rời Sài Gòn, về lại Cố Đô, sông Hương núi Ngự
Một chuyến về, nào ngờ qui ẩn nhà xưa
Chỉ vài tháng sau, nắng Huế đổ mưa
Quý Sửu 73, kinh kỳ vĩnh lạc
Bảo tháp Tường Vân tổ đình trầm mặc
Tùng bách nghiêm đường lịch đại Tổ Sư
Ta Bà nung nấu lò cừ
Thường lạc ngã tịnh Hữu Dư Nát Bàn
Ngàn xưa Cổ Đức âm vang
Ngàn sau Thánh Đức nghiêm trang tôn thờ
Ngàn xưa lối cũ không mờ
Ngàn sau kế thế truyền thừa rạng soi.
Ngày 22 tháng 6 năm 2012
Trước khi Vào Hạ
Thích Nhật Tân
Ghi chú:
Vì có viết ngưỡng tôn Ngài Đệ Tam, Đệ Tứ, mà không viết hai Ngài Đệ Nhất, Đệ Nhị, trong tôi chừng như có gì còn thiếu, có gì chưa vẹn. Lại biết Phật Giáo Úc Châu mở đầu Thiết Lễ Tưởng Niệm Tri Ân Bốn Đời Tăng Thống vào mỗi năm nhân Mùa An Cư, từ 2012 Nhâm Thìn trở đi. Nên tôi xin chân thành lui về dấu xưa, ôn và ghi lại đôi dòng dâng lên Giác Linh hai Ngài Nhất Nhị.
Tôi đọc hơn 3 lần rất kỹ Tiểu sử của 2 Ngài Đệ Nhất và Đệ Nhị Tăng Thống, xin hoàn toàn khâm thừa ngưỡng phục. Tuy nhiên, có thấy vài điểm không chuẩn có thể sơ xuất trong lúc Phụng Soạn. Tôi xin mạn phép, chứ không dám gọi là phạm thượng, để quý Ngài trưởng thượng hữu nhiệm chỉnh lại hay không thì tùy, và chân thành nêu ra đây như một sự lưu chú cho hôm nay và mai sau.
Tài liệu Tiểu sử phổ biến rộng rãi, tôi đọc và trích từ nguồn:
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
Vào khoảng các năm 1972–1974, Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ, thường được Tăng Ni-Phật tử gọi cung kính gần gũi là “Ôn Già Lam”, đang trong thời gian dài hoằng pháp tại Nha Trang và các tỉnh miền Trung, Ôn tạm an trú trên chùa Hải Đức, nơi có Phật học viện Trung Phần, trên ngọn đồi Trại Thủy. Khoảnh vườn và thềm hiên phía trước tịnh thất của Ôn dần dà trở thành một hoa viên nho nhỏ với nhiều cây cảnh hoa lá đẹp lạ, là nhờ ở bàn tay chăm sóc thương yêu của một vị cao tăng đức độ nhân từ.
Chuông ngân chùa xẩm nắng
Hương quyện áo tràng bay
Trăm tám vì sao rạng
Xoay tròn đôi 1óng tay
Mười phương cây lặng gió
Năm sắc hồ trôi mây
Làn nước lên đầu núi
Ánh vàng tràn đó đây.
Trong cõi nhân gian mịt mù tăm tối vì vô minh và phiền não, sự xuất hiện của một bậc chân tu đạo hạnh để dìu dắt con người trên đường tìm về giác ngộ và giải thoát, quả thật không khác gì một vì sao sáng trên bầu trời làm định hướng cho lữ hành trong đêm tối. Trong ý nghĩa này, Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn là một vì tinh tú sáng rực.
Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Sáng ngày 22.01 Quý Tỵ (03.03.2013) tại Tổ đình Tường Vân, tổ 16, khu vực 5, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, Chư Tôn đức Tăng Ni trong sơn môn pháp phái Tường Vân đã đã trang nghiêm trọng thể tổ chức Lễ Tưởng niệm 40 năm ngày Đức Trưởng lão Đệ Nhất Tăng thống Thích Tịnh Khiết viên tịch.
Ấn tượng khó quên mà lần đầu tiên tôi gặp Thầy Phạm Công Thiện là Thầy đã khuyên tôi nên tinh tấn tu tập, thực hành lời Phật dạy và niệm Phật.
Lần đó là vào giữa năm 1991, nửa năm sau khi tôi từ New York dời về Cali để sống, tại Chùa Diệu Pháp, thành phố Monterey Park, Los Angeles. Trong đầu tôi, trước khi gặp Thầy, mường tượng ra một Phạm Công Thiện hiên ngang và nói thao thao bất tuyệt về triết học Tây Phương, về Trung Quán, về Bát Nhã, v.v... Nhưng không, tất cả những suy nghĩ viễn vông và mộng tưởng đó đều bị sụp đổ tan tành khi tôi ngồi đối diện với Thầy Phạm Công Thiện trong một căn phòng nhỏ ở Chùa Diệu Pháp. Thầy Phạm Công Thiện, với dáng điệu từ tốn, khiêm cung, trầm lặng, chỉ nói những điều hết sức bình thường, chỉ khuyên những điều hết sức phổ thông mà người Phật tử nào cũng thường nghe quý Thầy khuyên bảo như thế.
Bữa tôi ra mắt sách tại Orlando, cựu Đại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh, Hội Trưởng Hội Cao Niên Orlando và Vùng Phụ Cận, có nhắc tôi là bài "Nhà Sư Của Tôi" (NSCT) trong cuốn tạp văn "Viên Đạn Cuối Cùng" còn thiếu nhiều chi tiết. Tôi cảm ơn cụ Quỳnh và hứa là nhân dịp Tân Niên Canh Thìn (y2k) tức Năm Rồng đầu thiên niên kỷ mới, tôi sẽ kể thêm về những câu chuyện tại Trại "cải tạo" Thanh Phong, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
Thượng tọa Thích Thông Huệ, thế danh Bùi Hữu Hòa, sinh năm Tân Sửu (1961) tại Phan Rang - Ninh Thuận. Năm 20 tuổi (Canh Thân - 1980) xuất gia với Hòa thượng Thích Đỗng Hải, trụ trì Tổ đình Sắc tứ Thiền lâm tự - Phan Rang, Ninh Thuận.
Năm 1982 Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Thượng tọa đã đãnh lễ Hòa thượng Thích Đỗng Minh, cũng là vị Sư Bá trong tông môn, để được làm đệ tử Y chỉ sư.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.