Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hư Vân Hòa Thượng thi truyện

23/04/201304:17(Xem: 5414)
Hư Vân Hòa Thượng thi truyện
hoa thuong hu van
HƯ VÂN HOÀ THƯỢNG

Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm cảm tác

Như đã kết thiện duyên từ thuở ấy,
Giọt mưa trời tưới ngọt đất Hồ Nam.
Tiêu phụ thân và từ mẫu họ Nhan
Dòng vọng tộc, làm quan Thanh triều đại.
Quán Âm Tự, cùng phu nhân lễ bái
Dâng tấc lòng chí thiết trọn niềm tin
Dây nhân duyên se kết mối thâm tình
Chốn quạnh quẽ, nghe tiếng cười hài tử.
Tâm lắng đọng, vun phước lành cầu tự
Cơ cảm này, vọng bái bậc từ tôn
Linh ứng kia, sóng nước hải triều âm
Tiếng đồng vọng như ru lòng cổ miếu.
Bâng khuâng sớm khô gầy đôi bóng liễu
Ngẩn ngơ chiều rời rã một hồi chuông
Vách đổ, tường xiêu thuyết lẽ vô thường
Bức thánh tượng ướt dầm trong mưa lạnh.
Đường diệu vợi, ai về trong cô quạnh
Chốn xa xôi còn nhớ bước chân xưa
Cầu đưa ai qua mấy nẻo gió mưa
Qua mấy cõi vu vơ lòng thế sự.
Sửa tháp miếu, nối nhịp cầu gãy đổ
Tô tượng hình như đắp lại chân thân
Phước huệ vun bồi, thiện quả, thiện nhân
Nơi nhân địa, rõ mặt mày tự ngã.
Tiêu đại phu, bỗng giữa đêm mộng lạ
Cùng phu nhân thấy một vị thánh tăng
Khoác tràng y, đầu xuất hiện Quán Âm
Trên lưng cọp ứng hiện thân trước mặt.
Bừng giấc bướm, lạ lùng điềm ẩn mật
Cảm ứng đà lộ diện giữa phòng khuê
Bậc thánh nhân hiện tướng giữa trần mê
Nương nguyện lực vào ra muôn cảnh dữ.
Cảm ân đức hạ sanh làm đồng tử
Càng trì tâm, hộ niệm bậc thiện căn
Luôn cúng dường mong báo đáp Phật ân
Cũng vừa độ sương hoa thành tựu ngọc.
Nẻo hoạn lộ vinh hoa là phước lộc
Chốn quân thần danh lợi bỏ ngoài tai
Cán cân đời đâu chênh lệch lòng ngay
Nghiêng son đỏ mực chao dòng thanh sử.
Đúng thời tiết, tưởng như nghìn thiên sứ
Truyền tin lành chấn động cõi hư không
Vị đại nhân từ Đâu Suất thiên cung
Y chánh giáo phụng hành tông chỉ Phật
Bậc nhất sinh bổ xứ, ngài Di Lặc
Phú chúc lời lành hưng thịnh Phật môn
Phật Thích Ca thọ ký rạng bản tôn
Chèo bát nhã đưa thuyền từ lướt gió
Sinh chưa từng sinh, tử chưa từng diệt
Dấu chân nào sóng biển xóa từng khi
Ai hoài công giữ lại vết chân đi
Ai ngăn được dòng thủy triều tuôn đổ.
Đến với đời trong bọc da thịt đỏ
Khiến mẫu thân sinh kinh hãi từ trần
Rạch bọc da lộ mặt bậc thánh nhân
Đệ bát địa hàng Đại Thừa Bồ Tát.
Ân dưỡng mẫu biết lấy chi đền đáp
Tuổi thơ ngây sớm lộ tánh tự nhiên
Áng thiên thư hồng dấu ấn bổn nguyên
Dòng thánh kệ hiện nghìn thân chẳng khác.
Thường dùng đất nắn tượng hình Bồ Tát
Đặt trên cao rồi lễ bái cung nghinh
Tuổi còn thơ đà ưa thích kệ kinh
Đà sớm bước vào con đường lập mệnh.
Thiên tư vốn rõ nguyên hình chân, tục
Bất nhị môn, mê, ngộ, một đường cong
Điểm khởi đầu hai nét vạch hoành, tung
Cũng là điểm hồi quy về bảo quốc.
Trong thế tục phải thuận đường thế tục
Hợp luân thường miễn cưởng chuyện thất gia
Đính hôn cùng thục nữ, bậc anh hoa
Duyên cầm sắt trở thành duyên pháp lữ.
Tâm đồng tâm, chẳng bận câu bỉ, thử
Đạo như lòng, vô nhân ngã, sắc không
Thanh tịnh nghiệp duyên, thanh tịnh gia phong
Truyền đuốc tuệ nối giống dòng chư Phật.
Tháng hai, niên hiệu Hàm Phong thứ nhất
Theo cùng cha viếng hải đảo Đài Loan
Chiếc thuyền con trên biển cả mênh mang
Nào còn thấy dấu chân trời, mặt nước.
Kình ngư hiện trước mũi thuyền chắn bước
Cá voi chầu thuyền pháp há ngẫu nhiên
Giữa trời mây cảm ứng mối thiên duyên
Trên sóng biếc hiện phàm thân triều bái.
Liền đồng thanh niệm Quán Âm Nam Hải
Mây, nước một màu, người, vật một tâm
Thân cự kình hòa sóng nước bể Đông
Dần khuất dạng như chưa từng đã đến.
….
Mười ba tuổi phải chịu tang nội tổ
Nền quê xưa chôn cất nắm xương tàn
Chư tăng ni hành lễ tại thôn trang
Áo bào quyện bóng chiều vàng cố quận
Lời kinh xóa mối lụy sầu u uẩn
Tiếng chuông đưa niềm an lạc như nhiên
Xao xuyến lòng buổi gặp gỡ đầu tiên
Sao mường tượng như đã từng quen thuộc.
Chắp hai tay đãnh lễ người hữu đức
Phước báu này ai dễ góp phần chung
Đức ân dày gia trì lực viên dung
[100]. Lòng kính ngưỡng giảm trừ bao tội nghiệp.
Tưởng như có nhân duyên từ vạn kiếp
Truyện Hương Sơn rạng rỡ đức từ bi
Đạo là đời trên mỗi bước chân đi
Hiện thân tướng khắp cùng mười pháp giới
Ngộ bản nhiên, bồ đề tâm phát khởi
Vượt thiên không, đạo khí ngút trời mây
Cổ tích lưu truyền, mối đạo trong tay
Tâm cung kính vọng thánh hiền chí cả.
Nam Nhạc Hằng Sơn cảnh quen, người lạ
Đá ngàn năm ở lại với ngàn năm
Cảnh thanh nhàn thường phát xuất thánh tăng
Duyên pháp lữ ba đời còn thấy lại
Ai biết ai, trong tang điền, thương hải
Người gặp người, ngần ngại lối đi quen
Quyển kinh đời hiện bóng dáng nhân duyên
Thân qua lại giữa muôn người qua lại.
…..
Mười bốn tuổi ngậm ngùi câu thoát tục
Thờ ơ lòng trước vinh nhục thế gian
Vì hiếu từ phải vâng lênh phụ thân
Đành học hỏi hàng bàng môn, tả đạo
Học hít thở, luyện đan theo tà giáo
Dù biết si cuồng che khuất tự tâm
Biết tham sân giam hãm tháng rồi năm
Biết bao kiếp đắm chìm trong vọng dục
Tà pháp môn là cửa vào lao ngục
Tự trói mình trong kỹ thuật tinh vi
Tâm bềnh bồng như nửa tỉnh nửa say
Say hương khói, say tượng hình thần thánh
Dùng tiếng kệ ru lòng cho qua cảnh
Trú đền cao, điện lớn tưởng đang tu
Khi gióng chuông, gỏ mỏ ngỡ công phu
Dưới khăn áo là ngục tù bất tịnh.
Bước bước mơ hồ, bao giờ kiến tánh
Thấy kho tàng trong bùn đất thế gian
Thấy Phật thân ngự trị giữa hoang tàn
Thấy búi tóc gói bảo châu chân, tục.
…..
Mười bảy tuổi, sau ba năm hờ hững
Chuông khánh lạnh lùng, hương nến dững dưng
Một ngày kia, thong thả giữa phòng không
Liền lén bước vội đi về hướng núi
Nam Nhạc sơn, bản hùng ca ngàn tuổi.
Tóc râu này, đâu sóng nước Ni Liên
Rừng hoang vu, bước cao thấp chẳng yên
Không Kiền Trắc ai người nâng vó ngựa
Không cấm thành, không thiên vương phá cửa
Núi chập chùng, bước bước mỗi quanh co
Tiếng chân đến gần, lời hỏi không xa
Lòng kinh hãi nhìn gia nhân hối hả
Dây trần thế buộc lắm đường kỳ lạ
Mối tư tình, chưa đã dễ phân ly
Như tội nhân giữ lại đúng hạn kỳ
Như cùng tử chưa tìm về cố quán.
Đất Tuyền Châu cha làm nơi quản thúc
Lại sai em là Phú Quốc cùng theo
Lễ thành hôn hợp cẩn đuốc hương treo
Một con rễ, hai con dâu giao bái.
Thêm pháo đỏ, rượu hồng, câu đối đãi
Thêm chiếu hoa, đèn gấm đặt đôi nơi
Thế gian ôi! Tuy cũng thuận với đời
Đôi hoa chúc chứng minh tâm cầu đạo
Ngoài là chồng vợ, trong là bạn pháp
Đổi chữ tình thành chữ tịnh không hai
Dưới đèn hoa mang Phật pháp giải bày
Thêm tương kính, giữ thân tâm bất nhiễm.
…..
Mười chín tuổi hướng Cổ Sơn cầu pháp
Trên án thư lưu lại bản trường thanh
"Bì Đại Ca" hề! Thực tướng hiện hình
Mang sắc tướng chẳng lụy vì sắc tướng
Trượng phu hề! Xuôi thuyền trên gió ngược
Bể cả, sông, hồ sâu cạn khác nhau
Chỗ hồi quy đại xứ nước một màu
Cùng thể tánh, người và ta chẳng khác.
Dũng Tuyền Tự trên Cổ Sơn cạo tóc
Lạy Thường Khai lão hòa thượng xuất gia
Thọ Cụ Túc Giới - hòa thượng Diệu Liên
Nhận pháp hiệu là Đức Thanh - Diễn Triệt.
Không phan duyên, chọn sống đời cách biệt
Trong âm thầm suy gẩm pháp nhất thừa
Đại Thừa Khởi Tín - danh tác ngàn xưa
Tâm hội pháp, thân duy trì tịnh giới.
Giữ thân, khẩu, ý không theo vọng khởi
Báo thân kia nào khác với Phật thân
Miệng phun châu, nhả ngọc giữa bụi trần
Ý thanh tịnh, đâu chẳng là pháp ý.
Hang núi hẹp đông qua rồi đông đến
Sương tuyết bốn bề lạnh trắng sơn trang
Mảnh tăng bào chắp vá chuỗi thời gian
Chốn quạnh quẽ, sói lang là pháp lữ.
Hạt thông rừng làm thức ăn vừa đủ
Khe suối nguồn cho nước uống đã dư
Ngày tham thiền, đêm nối đuốc công phu
Bảo sám pháp, ba ngàn lần đảnh lễ.
Tinh tấn đạo tâm hằng khai trí tuệ
Tịnh hạnh vun bồi, định lực siêu nhiên
Như mây trời, tan hợp đã bao phen
Như gió thoảng, đến đi không lưu dấu
Không thực, không hư, chẳng không, chẳng có
Một thân này gồm đủ cả muôn thân
Một tâm đầy, chẳng giả cũng chẳng chân
[200] Mười pháp giới rõ bày trong một niệm.
Phước huệ song tu, hộ trì tam bảo
Bậc đa văn, người quét lá như nhau
Tự tánh rỡ ràng chẳng thấp chẳng cao
Ai người biết rừng tùng sinh hiền thánh.
Gieo tưới vườn rau, vun bồi tâm địa
Đất ươm mầm, cây đơm trái, kết hoa
Như đất tâm dấu hạt giống Phật Đà
Từ muôn thuở, đất âm thầm nuôi dưỡng
Từ muôn thuở, cây theo duyên sinh trưởng
Đất chẳng hề từ chối nhận mầm cây.
Thiên nhân sư ứng hiện thế gian này
Xới luống đất cây Bồ Đề nẩy lộc.
Hương an lạc cúng dường thiên không hội
Vị nhu hòa ban trải địa ngục môn
Khắp mười phương chư Phật chuyển pháp luân
Chư Bồ Tát khiêm cung đồng ứng hợp.
…..
Ngày tháng tên bay, vắng tin, vắng bóng
Như giọt sương mai thân phụ qua đời
Nhớ tưởng ngày còn bồng bế trong nôi
Ai biết trước núi đồi là chỗ trọ.
Cảm chí cả như thành trì kiên cố
Các phu nhân cũng lập hạnh xuất gia
Sen trong bùn, ngọc trong đá, nhụy trong hoa
Nơi Phật quốc chúng ma làm quyến thuộc
Tam thân Phật, một trong ba, ba trong một
Đại thánh đâu chẳng nhiều nổi gian truân
Chừng đến bờ quay nhìn lại đoạn đường
Biết mê đắm, trước Đề Bà cảm tạ.
Chùa Dũng Tuyền bốn năm làm chức sự
Chí hướng này, ai là bậc tri âm
Trước công danh, lợi dưỡng chẳng động tâm
Lấy khổ hạnh làm đường vào mật tạng.
Bát cháo lạnh no thế tình đạm bạc
Manh áo sờn ấm đạo khí thanh lương.
Không tham cầu, chẳng biện bạch thực, hư
Hạnh Cổ Nguyệt thiên thu nguyền theo dấu.
……
Hai mươi bảy tuổi trở về hang động
Lập hạnh đầu đà khiến quỷ thần kinh
Giả cảnh chu toàn, chân tánh ẩn trang kinh
Muôn dòng kệ gọi thầm trên lá bối
Ai nở phụ phàng đức ân tiền bối
Một lần đi, một gánh, trọn đất trời.
Đường Tây du mây nước hững hờ thôi
Đêm trăng lạnh tựa đầu trên gối tuyết.
Từ giả tăng phường ẩn trong hang huyệt
Tâm đạo đại hùng khiến đá nứt vàng tan
Ngày tham thiền.Đêm tham thiền.
Tham! tham! tham!.
Lấy nước suối, hạt tùng làm pháp thực.
Chốn hoang vu lấy vô tranh làm đức
Trăng nước bốn mùa chẳng thiếu chẳng dư
Tâm địa phơi bày như bản đồ thư
Hằng quán chiếu rõ ngọn nguồn sinh khởi.
Văn tự ngữ ngôn vì người lưu lại
Với Phật tâm một chữ cũng là nhiều
Không bận lòng, mặc trăng sớm, sao khuya
Thắng cảnh hiện, lòng không hề vướng mắc.
Chân bước như bay, thân ngời quang sắc
Tai nghe tỏ tường, mắt xoáy màn đêm
Chẳng chấp ta, người, thần thái an nhiên
Ba cõi tiêu dao, Đông, Tây, Nam, Bắc.
…..
Buông xả muôn duyên mặc tình tiêu sái
Một ngày kia dừng lại đất Ôn Châu
Phong cảnh hoang sơ mây nước một màu
Đối cảnh, gặp người hỏi câu cứu cánh!.
Nghe pháp ý, nếu chẳng hàng tịnh hạnh
Hẳn người trời trú nơi cõi Tịnh Cư.
Đáp sao cho vừa vặn, chẳng thiếu, chẳng dư?
Tự hổ thẹn, liền tỏ lòng khiêm hạ.
Thiên Thai Sơn, Hoa Đỉnh là quán trọ
Bậc đạo sư, ngài Dung Cảnh lão nhân.
Nhất tâm cầu thiện tri thức minh tâm
Đạo viên mật, tâm chúng sinh như thị.
Năm Canh Ngọ, niên hiệu là Đồng Trị
Đến Long Tuyền đảnh lễ bậc cao tăng
Hỏi rằng: Là đạo sĩ?. Là tăng nhân?
Hoặc người thế, sao vóc hình quái dị?.
Liền chắp tay thưa: Vốn là tăng sĩ.
Lại hỏi rằng: Đã thọ giới phải chăng?
Học từ đâu cách tu tập lạ lùng?
Liền ứng đối: Vốn theo gương người trước.
Lại cười rằng:
Tế hạnh, oai nghi, ba ngàn, tám vạn
Biết trì thân há đã biết trì tâm!.
Thoạt nghe qua như suối đổ, thác tuôn
Bầm gan ruột, liền thỉnh cầu khai thị.
Dạy lời rằng: Đã trèo non, vượt bể
Đêm kề sao, đêm tựa nguyệt đến đây
Nếu chẳng nghe lời, tùy tiện ra đi.
Liền đảnh lễ, quyết một lòng tuân phục.
Lão sư dạy hãy sửa hình, đổi vóc
Cạo tóc râu, sinh hoạt cũng như ai
Hiển giáo rõ ràng, tông chỉ Thiên Thai
Quán thây chết, ai nguời đang kéo lết?.
Dung Cảnh lão nhân tùy thời khai đạo
Giới luật tinh nghiêm, tông giáo liễu thông
Mưa pháp gội nhuần kết trái, đơm bông
[300] Muốn được pháp nên thường xuyên nghe pháp
Đường xa muôn dặm du phương hành cước
Đến Quốc Thanh học quy chế thiền đường
Sau hai năm tham vấn chốn đạo trường
Sang Phương Quảng cầu Pháp Hoa diệu nghĩa
Bát Nhã Phật đường mười phương tụ hội
Học pháp vô vi kiến tánh vô vi
Giữa Phật trường tăng, tục đến dự thi
Ai đắc được tâm không thì trúng tuyển.
Cao Minh Tự - ngày ngày nghe thánh điển
Diệu Pháp Liên Hoa - thấu triệt toàn kinh
Cùng Cảnh hòa thượng đàm đạo thâu đêm
Lạy bái biệt, một mình đi xuống núi.
…..
Đi ngang qua chùa Nhạc Lâm Tuyết Đậu
Vẳng lời kinh ghé bước lại bên hiên
Vào bên trong quỳ lạy kết pháp duyên
Lòng cung thỉnh được nghe lời tự thuyết
A Di Đà kinh - thánh ca bất tuyệt
Có bao giờ tánh tướng phải ly khai
Có bao giờ trăng nước vỡ làm hai
Lòng nhân thế như thủy triều lên xuống.
Phổ Đà Sơn - biển xanh lòng pháp hải
Tiểu Bạch Hoa - rơi trắng lối tiên thiên
Đêm tham thiền, ngày lễ bái thánh hiền.
Chùa Pháp Vũ chọn làm nơi tạm trú.
Cung Thủy Tinh - Đức Quán Âm hóa độ
Đóa sao trời phiến ngọc trổ lưu ly.
…….
Chùa A Dục Vương ngày ngày đảnh lễ
Đóa ngọc xưa còn để lại cho đời
Một chút này đây, ghi tạc thế nhân ôi!
Là thánh thể, là mặt trời trí tuệ
Ngã, Pháp đồng hư không, đâu dâu, đâu bể
Một tâm này tức đồng với Phật tâm
Muôn thân này thực báo giữa trầm luân
Biển lặng sóng, nhục thân là pháp bảo.
Qua lại, đến đi, hang sâu, vực thẳm
Vùi ngọc châu trong bùn đất dững dưng
Thoảng lời than nhắn gởi gió đưa chuông
Dường mắt ướt ẩn trong lòng giấy mới.
Tâm đại bi, lấy đức lành vun tưới
Trí đại từ, chọn giống thiện ươm hoa.
Một niệm gồm thâu, trên, dưới, gần, xa
Muôn tướng chẳng lìa, đến, đi, qua, lại.
…..
Đến Tam Thiên Trúc viếng người viếng cảnh
Đất Hàng Châu, triều bái bậc thiện nhân
Tiết hè oi ả, thuyền nhỏ, người đông
Mây nước bềnh bồng, trời xanh, đáy biếc.
Khoang chật hẹp, gái, trai, chen hàng lớp
Phiến lênh đênh, tăng, tục, dựa chập chờn
Đêm giật mình, dường ai chạm vào thân
Nhìn bên cạnh, gái lõa lồ mời mọc
Liền đoan tọa kết kiết già trì chú.
Tâm kim cương, hoằng nguyện dễ gì tan
Đã ngàn năm dục niệm thuở Ma Đăng
Cảnh có khác, đạo tâm không sai khác.
Bức hoành đồ vẽ trời cao đất rộng
Dấu chân nhân in bóng nước hồ xanh
Sóng vỗ đôi bờ như thủy, như chung
Đâu là chỗ tận cùng dòng lãng bạc.
Vời vợi trăng non mờ dấu hạc
Đong đưa liễu biếc thoảng cành sương.
Phật quốc trùng trùng bích hải, thiên không
Nhân cảnh mang mang phù bào, nguyệt ảnh
Siêu xuất ma cung.
Phổ truyền thánh pháp.
Giang Tô Thường Châu - Thiên Ninh cổ tự
Hòa thượng Thanh Quang - thiền, giáo, hành trì.
Lưu lại nơi này tham học thanh quy
Niệm danh Phật giữa núi đồi tĩnh mịch
Pháp thánh nhân thuận theo thời biến dịch
Khí hạo nhiên bất tuyệt đạo kim quang
Nhân kiệt, địa linh, hổ phục, long chầu
Pháp hỷ, thiền duyệt, tông nghiêm, giáo hiển.
Như sư tử cuộn mình xanh đỉnh biếc
Ngọn Tiêu Sơn ngăn sóng nước Trấn Giang
Chùa Huệ Cư thừa tự có thánh tăng
Hư Công theo chúng tham cầu mưa pháp
Duyên tương ngộ gặp được người dũng tướng
Trấn giữ ngàn hải lý giữa ba quân
Chí hùng anh vùng vẫy mấy trùng dương
Lòng vì pháp dưới đài hoa quy mạng.
………..
Dựng gậy thiền, một hạnh vạn nghìn môn
Cưỡi gió pháp, ba thân không một tướng.
Đai ngọc quý, Tô tướng quân bái phục
Lửa than hồng, Giác hòa thượng điềm nhiên
Trên bồ đoàn bạc màu áo tăng sinh
Giữa pháp vị tươi sắc hoa đạo hạnh
Trăng núi lạnh ẩn dòng mây trầm mặc
Nước khe sâu tuôn nguồn mạch tự nhiên
Niệm Phật danh, chấp ta, Phật, đôi bên
Chẳng nhìn được lúc môi chưa mấp máy.
Hai mươi năm, muôn dặm đường xuôi ngược
Đá cũng mòn theo sóng vỗ ngàn năm
Mảnh mảnh tăng bào tiều tụy xác xơ thân,
Lòng cầu đạo phiêu bồng cơn gió nghiệp.
Phổ Đà Sơn. Tiểu Bạch Hoa.Nam Hải.
Giải thiên hà hoa trắng điểm dòng xanh
Đêm lặng vô cùng, đồng vọng lời kinh
Trăng nước bốn mùa.Trời mây một cõi.
Đầu tháng bảy hướng Thanh Lương triều bái
[400] Ngũ Đài Sơn băng tuyết phủ quanh năm
Đường gập ghềnh, ba bước chỉ một tâm
Gió hờ hững thổi ngang manh áo bạc.
Bốn vị thiền tăng phát tâm hộ pháp
Làm phụ hương đến được đất Hồ Châu.
Dưới trăng vàng phủ phục báo tứ ân
Gội mưa nắng trải thân từng nhịp bước.
Đất cũ, người nay, trời Tây, đỉnh Bắc,
Duyên khác xưa lòng chẳng khác lòng xưa.
Một lần đi, nhị khổ - chuyển pháp luân
Thêm một bước, đoạn gốc cành phiền não.
Lại một bước, tựu thành muôn nghiệp đạo
Đây ứng thân chiếu rạng pháp thân tàng
Phương tiện làm viên tịnh tánh chân quang
Lực thiền định trên đôi chân thần túc
Thấy cảnh lạ, người sinh lòng kính phục
Thêm thiện nam, thêm tín nữ nối nhau
Dáng như rồng uyển chuyển dưới trăng chầu
Tam thế Phật - Ngũ Đài Sơn vọng bái.
Đến Thường Châu, sau nhiều lần khuyên giải
Bốn tăng nhân đồng một ý thối tâm
Còn lại một mình, trăm núi, nghìn sông
Thân đói khát, gân xương đều rời rã.
……
Tại Ngưu Đầu sơn, U Thê, Nham Hạ
Hang đá bốn mùa, tinh tấn dụng công
Danh tiếng xa gần, thiền vị Pháp Dung
Tựu linh khí vầng mây hồng núi Bắc.
Tứ Tổ Đạo Tín, ngày kia dừng bước
Hỏi: Là ai? Tâm quán, quán vật chi?
Sư không trả lời, mời Tổ viếng thảo lư
Tiếng lang sói gầm rung gian lều cỏ.
Tổ ra vẻ hãi kinh.Sư chẳng ngộ.
Chữ Phật này.Tổ viết trên bồ đoàn.
Vạch ngắn dài, pháp kiến tánh minh tâm.
Trên nét bút hiện toàn chân diệu tạng.
Phụ mẫu sở sinh thanh tịnh thường nhãn.
Sáu căn này tự tại đấng pháp vương
Thân tâm này lục nhập, sắc, thanh, hương
Pháp đốn giác vượt nghìn muôn thứ đệ.
Sư Tử con được chăn nuôi, bồng bế
Chẳng bao lâu hùng khí khác chi mèo.
Đến một ngày, nghe suối chảy như reo
Soi bóng nước, biết mình là Sư Tử.
Qua bảy mươi dặm dến vùng Phổ Khẩu
Đỉnh non thiêng gọi hành giả mười phương
Đêm trăng xanh, ngày với mặt trời hường
Duyên đạo hạnh đưa chân người cầu pháp.
Phụng Dương, Hào Châu, Thiếu Lâm, Bạch Mã
Hùng Nhĩ sơn máu nhuộm sắc tuyết hồng
Chuỗi sổ châu đổi lấy một đường gươm
Vách đá lạnh chín năm dường đủ ấm.
Đất Lạc Dương lần đầu tiên khai ấn
Phiên dịch bản kinh Tứ Thập Nhị Chương
Trúc Pháp, Ma Đằng, ngựa trắng đưa hương
Biển lửa lớn hiện tàng kinh rực rỡ.
…..
Ngày cuối Đông dừng chân nơi quán trọ
Không am mây, không chùa núi gần xa
Phơi chiếc tăng bào ướt lạnh gió mưa pha
Đêm trừ tịch bến sông nhìn sóng gợn.
Sau một ngày tìm thuyền qua sông lớn
Vượt Hoàng hà trời nước một màu đen
Không chỗ, không nơi, chẳng biết, chẳng quen
Gian lều cỏ run mình theo gió hú.
Sông nước lạnh lùng, trời mây bao thuở
Trên sàn thiền trăng ngó liếp rơm xiêu.
Tuyết một màu trắng lạnh bến sông khuya
Ai là kẻ quán tâm, tâm ai quán.
Đêm trống trải co mình trong góc vắng
Sương tuyết làm mùng, gió đắp thân run
Sàng đất ướt dầm, thoi thóp từng cơn
Duyên hội tụ, giả thân làm giả bệnh.
Sau ba ngày hôn mê trong đói lạnh
Pháp nhẫn làm tòa, lục chủng tướng quang minh.
Biết khổ lạc này chẳng xứ diệt, chẳng xứ sinh
Thân tâm thọ, vì đâu mà trói buộc.
Nắm tuyết lạnh.Cháo kê vàng.Lửa đỏ.
Hỏi là ai, Văn Cát hoặc Diệu Thù
Giả tỳ khiêu, khất cái, giả trí, giảngu
[478] Cảm tức ứng, trước sau không một vật.

 ***
facebook
youtube



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 7732)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18650)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5287)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7371)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4405)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17254)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8210)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4691)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5461)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 5115)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567