Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bùi Giáng và những chuyện chưa kể

19/03/201002:09(Xem: 6327)
Bùi Giáng và những chuyện chưa kể

BÙI GIÁNG
VÀ NHỮNG CHUYỆN CHƯA KỂ
Chơn Nguyên

Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 …

Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.

Vào thời đó, mỗi hộ đều có một cuốn sổ lương thực. Anh Giáng giữ sổ cẩn thận và đảm trách công việc đi mua lương thực rất chu đáo. Trong khoảng thời gian ở chung anh chưa một lần bỏ công việc. Chỉ khi nào hợp tác xã bán khoai sắn hay những loại lương thực giá rẻ, anh mới mua rồi đem phân phát cho những người nghèo. Nhiều khi thấy anh vác bao những gạo 10kg hay 20kg lên cầu thang, chúng tôi ái ngại, xuống vác giùm, nhưng anh không chịu. Sau mỗi lần buông gạo trên vai xuống, dường như anh vui hơn, khỏe hơn và tỉnh táo vô cùng, lạ thật!

Anh Giáng rất thương người. Nhiều lần anh xin chúng tôi tiền, đi rảo quanh chợ, cho những người nghèo khó mà anh đã theo dõi và biết rỏ về hoàn cảnh khó khăn của họ. Có lần anh muốn giúp người nào đó quá khó khăn, túng thiếu với số tiền nhiều nhưng không dám xin tiền chúng tôi nên anh vào phòng gom quần áo, sách vở của chúng tôi đi bán ở đâu không biết. Hai ba ngày sau mới về, như một người biết lỗi, anh len lén vào phòng, ngồi im trong một góc giường. Thấy bộ dạng của anh, chúng tôi không còn giận nữa, nhưng vẫn làm nghiêm hỏi:

- Anh lấy quần áo, sách vở của tôi phải không?

- Phải

- Để làm gì?

- Giúp người

- Tại sao anh lấy đồ vật của người ta mà còn kỳ thị địa phương?

Anh ngạc nhiên hỏi lại:

- Cái gì?

- Áo quần, sách vở của chúng tôi để chung với anh Châu. Anh Châu đồng hương Quảng Nam với anh, nên anh chỉ lấy áo quần, sách vở của tôi, còn của anh Châu thì không lấy thứ gì cả, kỳ thị địa phương chứ gì nữa?

Anh phì cười:

- Không phải đồng hương, đồng khói gì cả, chỉ vì thằng Châu sinh viên nghèo, lấy của nó tội.

Rồi sau đó, Viện Đại học Vạn Hạnh được sử dụng làm Trường Đại học Sư phạm, chúng tôi dời về 716 Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận. Khi về nơi đây, anh Giáng không về theo. Anh đi đâu không rõ. Hơn nữa năm sau, anh mới trở lại. Anh lặng lẽ đi vào phòng chúng tôi, đặt lên bàn một nải chuối chín vàng rất đẹp và một lá thư rồi lặng lẽ đi như đã đến. Chúng tôi xúc động vì lâu ngày mới gặp lại anh, và ngạc nhiên vì cử chỉ khác thường của anh . Chúng tôi trân trọng đặt nải chuối lên cúng Phật và cầm lá thư đọc:

“ Ngã hữu thốn tâm vô dự ngữ

Hồng sơn, sơn hạ Quế giang thăm”.

Không biết hai câu thơ này anh làm hay anh trích dẫn của ai, nhưng đọc xong chúng tôi lặng cả người vì tình cảm nồng hậu của anh.

“ Ta có tấc lòng chưa ngõ được,

Dưới chân núi Hồng, sông Quế mãi sâu”.

Sau đó , anh thường xuyên lui tới với chúng tôi, nhiều khi ở hai ba tháng liên tục, rồi đi đâu đó nữa tháng mới trở lại. Một lần, anh trở về với tiếng chó sủa, tiếng kêu inh ỏi của bầy chó, anh kêu chúng tôi ra ngồi dưới gốc cây hoa hậu để nói chuyện. Anh cho biết, anh mới từ Long An về sáng nay, ghé chợ nhỏ Phú Nhuận, nhâm nhi cốc nhỏ cho ấm bụng. Nhưng nghe tiếng kêu của bầy chó và bộ dạng quen thuộc của anh, lũ nhỏ bán bánh kẹo quanh chợ liền tụ tập quanh anh khá đông. Anh đọc thơ, nói đủ thứ chuyện cho bọn trẻ nghe. Chúng mải mê theo anh nên quên cả bán buôn. Thấy trưa rồi, anh mới nói:

- Trong tụi bây, đứa nào làm được hai câu thơ thật hay, tau sẽ mua toàn bộ bánh kẹo, nếu không được tất cả phải đi bán nghe chưa.

Sau một đỗi, có đứa nhảy ra trước mặt anh và nói:

- Thật không bác?

Rồi chẳng cần anh trả lời, nó ứng khẩu đọc liền:

“ Sáng nay bán ế quá chừng, Vì nghe bác Giáng nói khùng quên đi”.

Thế là bao nhiêu tiền trong túi, anh đem cho hết bọn trẻ.

Mỗi lần hết tiền, anh thường tìm đến chúng tôi; và lần này…kể xong chuyện, anh tặng chúng tôi hai câu thơ:

“Đến thăm sư phụ Chơn Nguyên, Trầm tư vô tận ưu phiền tái lai”.

Sau khi đưa tiền cho anh trả tiền rượu và tiền xích lô, chúng tôi gởi tặng lại anh hai câu thơ:

“Nghe tin sư phụ thở dài, Đến đây Bùi Giáng đòi hoài tiền xe”.

Anh nhận tiền và khoái chí cười to.

Anh Bùi Giáng gọi chúng tôi với đủ loại danh xưng, như trong tờ giấy chép thơ tặng chúng tôi, anh ghi:

“Kính gửi sư phụ, Đồng chí, Đại ca Thích Chơn Nguyên:

Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ, Có ai ngờ xó chợ cũng thương nhau”.

Một hôm có người rũ anh về lục tỉnh chơi, anh mãi vui dưới đó hơn ba tháng mới trở lại; chắc là nhớ thiền viện Vạn Hạnh lắm, nên mới sáng tinh mơ, anh đã đến Viện để đưa tờ giấy:

“Kính gửi: Thầy Minh Châu

Thầy Chơn Thiện

Thầy Chơn Nguyên

Kính dâng Vạn Hạnh một tờ

Kể từ vô tận bất ngờ tái lai”.

Chuyến đi anh quá phung phí sức, nên đến Viện vài hôm, anh ngả bệnh. Chúng tôi săn sóc và tẩm bổ anh cả tháng mới hồi phục, vừa khỏe xong là anh lại đi. Trước khi đi anh để lại bài thơ:

“Thầy vui như thể thiên thần,

Con buồn như thể tuyệt trần bấy nay.

Thầy vui Vạn Hạnh bấy chầy,

Con buồn chết đứng giữa ngày phù du”.

Sau đó, vắng anh thời gian khá lâu, mới biết được anh về ở với người cháu sau lưng chùa Liên Ứng. Chúng tôi đến thăm anh vào một đêm rằm, trăng đổ đầy khu vườn anh ở, mới gặp nhau chưa kịp mừng, anh hỏi như kẻ lạ:

- Đi đâu đó?

- Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.

Câu trả lời làm anh vui, phấn khởi như ngày tháng quen cũ. Anh đọc đủ loại thơ, với nhiều giọng, kể cả giọng Quảng “Nôm”của anh.

Trước khi ra về, anh đưa cho chúng tôi một bài thơ của Lý Bạch, anh nói bài thơ này có tư tưởng gần với giáo lý nhà Phật; về dịch xong đưa lại cho anh xem. Nghe anh nói, tôi ngại, đâu dám múa may trước một người cao vời vợi về thơ ca cũng như chữ nghĩa, hơn nữa chúng tôi chưa từng làm việc này một cách nghiêm túc. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng có dịch thơ Đường, nhưng bài nào thích thì dịch, rồi đọc bạn bè nghe cho vui mà thôi. Hôm nay, anh lại nhờ, nhờ một cách quá trân trọng, vì thế chúng tôi không thể từ chối. Bài thơ của Lý Bạch như sau:

NGHI CỔ

Sanh giả vi quá khách
Tử giả vi quy nhân
Thiên địa nhất nghịch lữ
Đồng bi vạn cỗ trần
Nguyệt thổ không đảo dược
Phù tang dĩ thành tân
Bạch cốt tịch vô ngôn
Thanh tùng khởi tri xuân
Tiền hậu cánh thán tức
Phù vinh hà túc trân

Đọc xong nguyên tác, chúng tôi ngại việc dịch không chuyên chở hết ý của bài thơ, nhưng nặng tình với anh, chúng tôi đem về dịch:

THEO DẤU CHÂN XƯA

Sống là như khách qua đường
Chết là trở lại quê hương của mình
Đất trời quán trọ mông mênh
Nghìn năm cát bụi tâm tình đớn đau
Thời gian có đợi ai đâu
Đâu xanh hôm trước nay màu củi khô
Ngổn ngang xương trắng ngẩn ngơ
Hàng tùng xanh thẳm đâu ngờ xuân sang
Trước sau là tiếng thở than
Cuộc đời hư huyển giàu sang làm gì?

Gửi anh bài thơ dịch. Chưa gặp lại anh, để nghe ý kiến, thế mà anh không còn nữa! Nhưng biết đâu, việc dang dở này là cái cớ để anh thêm lần nữa: “Ngã hữu thốn tâm vô dự ngữ”.

Phải không anh Bùi Giáng?!



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2013(Xem: 14488)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6689)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5340)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4855)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5248)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6085)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5912)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9194)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 4891)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 5179)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567