Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con nguyện để tang Người

20/09/201200:08(Xem: 4528)
Con nguyện để tang Người


CON NGUYỆN ĐỂ TANG NGƯỜI
Thích Nữ Nhuận Bình

u._980849028

Sáng nay con về lại Vạn Hạnh, không phải đi học, không phải nộp bài thi, không phải đi đảnh lễ,... mà để đi tiễn Ôn về với Phật. Con hòa mình vào dòng người tấp nập trên giao lộ Nguyễn Kiệm trong buổi sớm bình minh. Một ngày như mọi ngày nhưng cảnh vật hôm nay không còn bình yên nữa. Cây cỏ úa màu, hoa buồn ủ rũ. Mọi người tất bật, nôn nao bước nhanh về cổng chùa Vạn Hạnh, như sợ chậm chân sẽ không còn chỗ cho mình cung tiễn Thầy đi.

Cực lạc Ta bà đường về xa thăm thẳm

Người đi kẻ ở cách biệt mãi ngàn năm

Trời mới tờ mờ sáng, con theo chân đoàn người tiến vào Học viện. Chọn cho mình một vị trí nhỏ, một góc khuất khiêm tốn, miễn sao đứng nơi ấy có thể tận mắt chứng kiến được tôn dung di ảnh và nhục thân của Người. Bởi so với hàng ngàn người về dự lễ tang Ôn, con là đứa học trò vô danh tiểu tốt, như hạt cát nhỏ nằm ẩn lấp giữa hoang mạc kiêu sa. Nhưng con không sợ điều đó, vì con yêu Người, vì con kính trọng, ngưỡng mộ và mang ơn Người nhiều lắm!

UP_701951058

Ni sinh Thích Nữ Nhuận Bình - Sinh viên khoa Triết học Phật giáo khóa VI và Cao học khóa I



Kỷ niệm lần đầu tiên được gặp Người vào năm 2005. Đứng giữa sân trường, dưới gốc cây hoàng điệp nhiều nắng và gió của Học Viện, nhìn lên bậc thềm bước vào sảnh, một dáng người vận chiếc huỳnh y Nam tông từ tốn, chậm rải, nụ cười hiền hòa, bao dung, đang cầm những chiếc văn bằng trao tận tay cho các anh chị khóa V trong ngày lễ tốt nghiệp. Lúc đó con ước mơ sẽ có một ngày mình cũng được như thế. Được vinh dự nhận tấm văn bằng do chính Người trao.

Con thi tuyển đậu vào khóa VI Học Viện. Lúc này, Người ngày một già thêm. Dù vậy, ngày khóa VI chúng con khai giảng, Ôn vẫn hiện diện làm an lòng chúng con. Mỗi năm chúng con có ít nhất 1 lần được diện kiến và đảnh lễ Ôn, đó là vào dịp sinh nhật 20/10 mỗi năm, hay mừng khánh tuế lúc xuân về.

Khóa VI chúng con là cột móc lịch sử của sự đào tạo nền giáo dục Phật giáo mới, được chuyển đổi phương pháp giảng dạy từ gia giáo sang hệ thống tín chỉ hiện đại của Phương tây. Đây là bước sáng tạo, đột phá của nền giáo dục Phật giáo Việt Nam. Vì tuổi cao sức yếu, Ôn chỉ làm viện trưởng chúng con được hai năm. Ngày biết được thông tin này, huynh đệ chúng con buồn lắm! Chúng con cũng kịp nhận ra rằng, ngày chúng con nhận tấm văn bằng tốt nghiệp, vị trao văn bằng sẽ chẳng phải là Ôn. Thế là ước mơ nhỏ bé của con sẽ không thực hiện được nữa rồi.

Mỗi ngày chúng con đều đến Vạn Hạnh học, hết Cử nhân, rồi Cao học, nhưng mỗi ngày chúng con lại xa cách Người hơn. Vì sức khỏe của Người không cho phép, và vì chúng con không là gì giữa vũ trụ bao la. Dẫu có gặp được Người, chúng con cũng chỉ biết đứng ngắm nhìn từ xa, xá chào, vái lạy. Với Người, chúng con chỉ biết ngưỡng vọng, quy hướng, mà không một ngôn từ nào có thể lột tả được hết ân đức mà người dành cho chúng con. Năm 2011, con được may mắn diện kiến, đảnh lễ người. Đó cũng chính là lần cuối cùng con được nhìn ngắm tôn dung, người mà con yêu thương, kính trọng nhất.

Sáng 16 tháng 7, sau khi làm lễ tự tứ, con tất bật về miền tây tổ chức đại lễ Vu lan Báo hiếu. Trong cái huyên náo của chợ đời, chuông điện thoại reo vang,... Thông tin người ra đi làm con khựng lại. Giật bắn người nghe xa xót tâm can. Một sự mất mát nào đó đã ùa về làm tắc nghẽn bao dòng chảy suy tư. Dẫu biết Người đã bước qua tuổi 90 lâu rồi, và biết rất rõ một đời người là thế, nhưng chúng con vẫn không bao giờ muốn, mãi mãi không bao giờ muốn,... Thầy ơi?

Khúc vô thường hát trong chiều hội ngộ

Đêm liên hoan nghe sanh tử gọi thầm

Ta muốn khóc vì thấy đời vô nghĩa

Bàn tay nào ôm trọn vẹn chúng sanh

Con sợ đi đám tang, rất sợ. Mỗi lần đi về, mùi tử thi của người chết luôn làm con mệt mõi, bệnh tật. Thế nhưng, trong tang lễ của người, con đi viếng đến 5, 6 lần (vì con theo học nhiều lớp, nhiều ban), nhưng con không thấy mệt, thấy chán mà lại thích. Con thích cảm giác bước vào sân chùa Vạn Hạnh, tang lễ của Người lúc nào cũng đông nhưng rất đổi trang nghiêm. Dường như năng lượng của những bậc chân tu, năng lượng của lòng từ bi, bao dung đã làm nên khung cảnh dễ chịu, dễ gần như thế.

Những ngày tang lễ diễn ra, con theo dõi tin tức không sót một chi tiết nào. Bộ phim về cuộc đời và đạo nghiệp của Ôn, con đã xem đi xem lại năm lần bảy lượt. Dẫu là xem đến mấy lần, con vẫn không thể ngăn được dòng nước mắt tuôn rơi. Cổ đức từng dạy phải sống làm sao để; “Khi chào đời mọi người cười, ta khóc, đến cuối đời mọi người khóc, ta mỉm cười”. Con biết, giờ đây ở bên kia thế giới Người đang mỉm cười mãn nguyện, Người đang hạnh phúc khi công hạnh của mình đã viên thành quả mãn, Người hoan hỷ vì biết được có hàng triệu trái tim đang hướng về mình, yêu thương mình bằng tất cả những gì trân quý nhất.

Người có biết không? Sáng nay trong bài tưởng niệm Người, Hòa thượng Viện trưởng đương nhiệm của chúng con đã bật khóc. Từng dòng chữ chia ly Người được cất lên, là nỗi nghẹn ngào không thốt được thành tiếng. Hòa thượng Chơn Thiện, Thượng tọa Tâm Minh cũng khóc, chư tôn đức Tăng Ni, quý Phật tử không ai không tiếc thương nhỏ lệ. Con đứng đó, lòng dặn lòng phải cứng rắn để tiễn Người đi. Nhưng nước mắt ở đâu cứ chực trào ra, thấm vào bờ môi nghe mặn đắng cả cõi lòng. Con khóc như chính bản thân mình đã mất đi một phần ruột thịt, một phần của thiêng liêng, cao cả nhất. Từng lời kinh tiếp dẫn Nam Mô, là từng khúc nhạc chia ly đầy nỗi nhớ.

Lúc Kim quan người đã an trí tại bảo tháp Pháp Lạc, dòng người cứ chen chúc nhau đến tiễn biệt một cành hoa. Di ảnh Người được quý Phật tử đội lên đầu thành kính. Người đi rồi, Phật giáo Việt Nam đã mất đi một bóng mát, hàng Tăng Ni sinh của chúng con đã mất đi một người thầy, một người cha. Trăng đã lặn, Vạn Hạnh vắng bóng Người, chúng con bơ vơ mất người ân sư khả kính. Giờ đây, nhục thân Người đã nằm sâu trong lòng đất, mang theo bao tiếc thương, lưu luyến hàng nhiều thế hệ. Để tri ân một bậc thầy khả kính, con nguyện để tang Người đến ngày mãn khó. Mang chiếc tang nhỏ nhắn trong trái tim mình, chính là nhắc nhỡ chúng con phải học và hành đúng theo gương hạnh và tâm nguyện của Người. Xin ngàn lần tạc dạ vào tim, ghi sâu thâm ân của một đời vì thế hệ mai sau. Xin đốt nén tâm hương, nghiêng mình, tiễn người hanh thông về miền bảo sở.

Cha về cực lạc ngàn năm nhớ

Con ở dương trần vạn thuở thương

Kính Lễ

Ni sinh Thích Nữ Nhuận Bình - Sinh viên khoa Triết học Phật giáo khóa VI và Cao học khóa I

Khể thủ!

(Phật Tử Việt Nam)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5422)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 5869)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6892)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5857)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10251)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8276)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13409)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5606)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13395)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6396)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567