Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Trí Nhãn (1909 – 2004 )

08/04/201220:24(Xem: 6147)
Hòa Thượng Thích Trí Nhãn (1909 – 2004 )

HT Thich Tri Nhan

Hòa thượng
THÍCH TRÍ NHÃN
( 1909 – 2004 )
Trụ Trì Chùa Chúc Thánh – Hội An


 

Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có.

Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.

Năm Kỷ Mùi (1919), nhân dịp theo cha đến chùa Vạn Đức dự lễ Phật Đản, Ngài được diện kiến đức Tăng Cang Thích Thiện Quả (bấy giờ Ngài Thiện Quả trụ trì chùa Chúc Thánh kiêm trụ trì chùa Vạn Đức nên Ngài về Vạn Đức vào những dịp lễ lớn). Cảm mến đạo phong của ngài Tăng Cang, Ngài xin quy y thọ trì 5 giới và được Hòa thượng cho pháp danh là Như Truyện.

Năm Canh Thân (1920), được sự cho phép của hai đấng từ thân, Ngài đến chùa Chúc Thánh lạy Hòa thượng Thiện Quả xin được xuất gia, lúc bấy giờ Ngài vừa tròn 12 tuổi.

Nhập chúng tu học, Ngài cố gắng tinh chuyên miệt mài ngày đêm kinh kệ. Vốn thuở ấu thơ, Ngài đã học chữ Nho với ông nội với cả 4 thể loại Hành, Thảo, Lệ, Triện, thêm vào chùa tiếp xúc kinh luật bằng chữ Nho nên Ngài dễ dàng hấp thụ những nét tinh túy trong nghệ thuật thư pháp chữ Hán. Đồng thời, kỹ năng viết chữ của Ngài ngày được nâng cao, thuần thục, cộng với tánh tình hiền hòa nên Bổn sư rất yêu mến cho thọ Sa Di vào năm Giáp Tý (1924) tại giới đàn chùa Từ Hiếu-Huế với pháp tự là Giải Lệ.

Năm Giáp Tuất (1934), với lòng khát khao ngưỡng cầu giới pháp, Ngài được Bổn sư cho đăng đàn thọ giới Cụ Túc tại giới đàn Thạch Sơn tỉnh Quảng Ngãi. Giới đàn ngày do Hòa thượng Hoằng Thạc làm Đàn đầu, Hòa thượng Huệ Minh chùa Từ Hiếu-Huế làm Yết Ma và Bổn sư Ngài làm giáo thọ. Đồng thọ giới vời Ngài còn có các Hòa thượng Thích Trí Hưng: trụ trì chùa Từ Lâm-Quảng Ngãi; Hòa thượng Thích Hưng Dụng:trụ trì chùa Kim Tiên-Huế v.v…

 Sau khi thọ giới về, Ngài được Bổn sư phú pháp hiệu là Trí Nhãn, chính thức nối dòng phái Lâm Tế đời thứ 41, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh-Minh Hải khi vừa tròn 25 tuổi.

Sau khi thọ giới một thời gian, Ngài được Hòa thượng Thiện Quả cử làm phó trụ trì tổ đình Chúc Thánh để giúp Hòa thượng lo công việc trong chùa. Lúc này ngài Thiện Quả cũng đã cao tuổi nên chỉ lo an tâm tu niệm, mọi việc đều phó thác cho Ngài xử lý. Đồng thời, Ngài kiêm chức trụ trì chùa Vạn Đức mãi cho đến khi Đại Đức Thích Trí Nguyện về đảm nhiệm. Trong thời gian này, vào năm Canh Thìn (1940), Ngài đứng đơn xin triều đình ban biển nghạch Sắc tứ cho chùa Vạn Đức.

Năm Nhâm Dần (1962), đức Tăng Cang Thiện Quả viên tịch, Ngài được môn phong suy cử kế thừa tổ nghiệp, trụ trì chùa Chúc Thánh.

Là bậc trưởng thượng trong tông môn, Ngài được thỉnh làm Đệ Tam tôn chứng tại các giới đàn truyền giới Sa Di tổ chức tại chùa Long Tuyền vào các năm 1965, 1967.

Ngài là người hiền hòa đôn hậu, tính thích vắng lặng, lại thêm bị khuyết tật trong một tai nạn nên không tham gia nhiều trong các công việc của Giáo hội. Ngài chỉ chăm lo cho chốn tổ và đào tạo Tăng chúng để dòng nước Tào Khê luôn được tuôn chảy.

Năm Nhâm Tuất (1982), Ngài được cung thỉnh làm Yết Ma A-xà-lê tại giới đàn Sa Di tổ chức tại chùa Pháp Bảo-Hội An.

Sau năm 1975, đất nước gặp muôn vàn khó khăn, nhưng Ngài vẫn cố gắng khắc phục hoàn cảnh cùng với chư Tăng Ni Phật tử trong môn phái trùng tu bảo tháp của tổ sư Minh Hải khang trang tráng lệ. Lễ khánh thành tháp tổ được tổ chức trọng thể vào tháng 2 năm Nhâm Thân (1992). Trong đại lễ này, Hội đồng môn phái Chúc Thánh đã suy tôn Ngài lên ngôi vị Hòa thượng. Điều này cũng đã nói được phần nào đạo hạnh cũng như công đức của Ngài đối với tông môn pháp phái.

Qua năm sau, Quý Dậu (1993), Ngài đứng ra trùng tu ngôi bảo tháp của Hòa thượng Thiện Quả để báo đáp ơn giáo dưỡng của tôn sư trong muôn một.

Năm Đinh Sửu (1997), Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Quảng Nam được thành lập, Ngài được cung thỉnh làm Chứng Minh Đạo Sư Ban Trị Sự. Đồng thời, Ngài được cung thỉnh vào Hội Đồng Chứng Minh Trung Ương GHPGVN.

Năm Tân Tỵ (2001), nhận thấy mình tuổi già sức yếu, Ngài đã họp môn phái và đề cử Thượng tọa Thích Đồng Mẫn kế nghiệp Ngài trụ trì Chúc Thánh.

Sinh diệt xưa nay là lẽ thường như vậy, Ngài cũng thuận thế vô thường vào lúc 1 giờ 15 phút ngày Rằm tháng 2 nhuận năm Giáp Thân (04/4/2004) tại tổ đình Chúc Thánh, hưởng thọ 96 tuổi đời và 71 hạ lạp. Bảo tháp của Ngài được kiến tạo bên cạnh bảo tháp của tổ Minh Hải và Hòa thượng Thiện Quả. Điều này cũng đã nói lên được tâm nguyện lúc sanh tiền của Ngài: sống thì lo cho tổ nghiệp, vãng thì về bên cạnh hầu hạ ân sư.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2024(Xem: 1949)
Giáo sư Cao Huy Thuần - tác giả nhiều sách như "Thấy Phật", "Nắng và hoa", "Khi tựa gối khi cúi đầu" - mất ở tuổi 87, tại Paris, Pháp. Ông Cao Huy Hóa, em trai Giáo sư Cao Huy Thuần, thông báo ông mất lúc 5h ngày 8/7 (giờ Hà Nội). Hòa thượng Thích Hải Ấn - Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế - cho biết chờ thông tin từ gia đình, sau đó sẽ tổ chức buổi tưởng niệm giáo sư. Ông từng thỉnh giảng một số chuyên đề tại học viện.
28/06/2024(Xem: 1292)
Cung trời cũ, Thầy ung dung dạo bước, Chốn Hồng Trần, xin tạm gác niềm thương. Như Huyền nhiệm, đến đi trong tự tại. Diệt tang bồng, soi ảnh độ Tây phương. Thầy lặng lẽ, như hành thâm đại nguyện. Pháp Đại Bi, mật trú dạ Huân tu. Trong thiền thất, Thầy an nhiên thiền tọa. Thở và cười, chốn Bát Nhã Chơn như.
24/06/2024(Xem: 1585)
Đúng vậy! Tôn Sư Trưởng lão Hòa Thượng thượng NHƯ hạ HUỆ, Nguyên Hội Chủ và Chứng Minh Đạo Sư GHPGVNTNHN UDL-TTL, Phương trượng Chùa Pháp Hoa SA. Với 70 năm tu tập, 60 phục vụ PGVNTN tại quê nhà và hải ngoại, đã giáo dục, đạo tạo nên nhiều Tăng Ni và Phật tử tài giỏi, biết hy sinh bản thân để cống hiến cho đạo Pháp và dân tộc cũng như hết lòng phụng sự chúng sanh. Nhờ tấm lòng từ bi, với đức tánh hài hòa, nhẫn nại, bao dung rồi thâm nhập Phật Pháp. Từ nền móng đó, Phật giáo đồ và Giáo hội ở Úc đã nhiều nhiệm kỳ cung thỉnh Ngài làm Hội Chủ, đã giáo dưỡng nên nhiều đệ tử biết rõ cuộc đời là vô thường, khổ, để không chạy theo sự sanh diệt của thế gian, lánh xa ngũ dục, tìm cách diệt khổ vươn lên và phụng sự đắc lực cho cuộc đời, tạo vô vàn Phước Đức.
22/06/2024(Xem: 1397)
Có người, khi thấy tôi thường nhắc nhở, ca ngợi Hoà Thượng Thích Như Điển, cho rằng, tôi…nịnh Hoà Thượng. Trời, nếu hiểu theo nghĩa “nịnh” thì mục đích để cầu danh hay lợi gì đó. Muốn có danh đâu phải dễ. Giữa hai hạt, kim cương và hòn sỏi đặt dưới bóng đèn sẽ soi rõ bản chất của nó, không thể nhờ chiếu sáng mà sỏi thành ra kim cương được. Con người cũng thế thôi, bản thân chẳng ra gì có đứng bên người tỏa hào quang thì vẫn thấy cái dở của người đó. Còn lợi thì càng buồn cười hơn. Người tu vốn vào cửa...không, Phật tử phải đắp cho...có. Ở đó mà cầu lợi.
01/06/2024(Xem: 1970)
Từ khi mở đất, khai hoang, lập ấp vùng đất mới, Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558-1613) đã để ý đến việc lập chùa và lấy Phật giáo làm nơi nương tựa tinh thần cho việc lập quốc của dòng họ Nguyễn. Theo truyền thống đó, các chúa Nguyễn đều sùng thượng đạo Phật và mời các vị danh tăng Trung Quốc đến Đàng Trong hay vùng Nam Bộ ngày nay để hoằng hóa. Thế kỷ XVII ghi nhận có mặt của các Thiền sư Trung Hoa (Nguyễn Lang 2008):
31/05/2024(Xem: 2601)
Sa môn Endo Mitsunaga (Giáo thọ A-xà-lê Quang Vĩnh Viên Đạo, 光永圓道阿闍梨), sinh năm năm Ất Mão (1975) tại Kyoto. Năm Canh Ngọ (1990), thiếu niên tuổi 15, Ngài xuất gia thụ giới Sa di tại Myoo-do Hall ở Mudojidani, Mt. Hiei. Năm 1997 Ngài tốt nghiệp chuyên khoa Phật học tại Đại học Hanazono (花園大学).
28/05/2024(Xem: 3050)
Huế thường được mệnh danh là “Kinh đô Phật giáo” chẳng phải vì cảm hứng nghệ thuật hay cường điệu vẽ vời mà chính vì Huế có tới 332 ngôi chùa và niệm phật đường lớn nhỏ, trong đó có khoảng 100 ngôi cổ tự. Các ngôi chùa ngày nay hầu như đều được trùng tu nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc cổ kính, căn bản mang đậm màu sắc văn hóa Phật giáo. Dẫu là dấu tích truyền thống của tôn giáo nhưng những ngôi chùa cổ của Huế vẫn tiềm tàng những giá trị tâm linh, văn hóa, lịch sử của vùng đất cố đô.
09/05/2024(Xem: 2670)
Nhị vị canh cánh bên nhau suốt cả cuộc đời. Nhị vị cùng tòng học với Ngài BÍCH LIÊN ( Bình Định) rồi nhị vị dấn thân ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI , mỗi vị mỗi phong cách, mỗi vị một vị thế khác nhau, nhưng mỗi vị đều trung trinh lý tưởng : Coi việc phụng sự Phật pháp như là việc Nhà ( Hoằng Pháp vi gia vụ ) Nhị vị trọn đời trung trinh “ Thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh.
07/05/2024(Xem: 2663)
Hòa Thượng thế danh NGUYỄN HƯỚNG, pháp danh TÂM HOÀN tự GIẢI QUY, hiệu HUỆ LONG, thuộc dòng thiền phái Lâm Tế đời thứ 43. Hòa Thượng sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tý (1924) trong một gia đình môn phong Nho giáo tại làng Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Giòng họ Nguyễn Phúc định cư dưới chân đồi Phốc Lốc tính đến đời Ngài đã trải qua 7 đời.Thân phụ là cụ ông Nguyễn Phúc Trì tự Tung pháp danh Không Đảnh, đích mẫu là cụ bà Trần Thị Kiện mất sớm, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Chiếu pháp danh Không Chiêu, ông bà đều là đệ tử quy y với Quốc Sư Phước Huệ trú trì Tổ Đình Thập Tháp Di Đà. Thân phụ Ngài là một Hương chức trong làng, một vị đồ Nho giỏi văn chương thi phú, tín ngưỡng tôn sùng Phật giáo, ông bà sống rất phúc đức nhân hậu với mọi người. Gia đình Hòa Thượng có mười anh em(5 anh em trai, 5 chị em gái) Ngài là con thứ tám. Người anh cả của Hòa Thượng tục danh Nguyễn Cao theo Pháp Sư Phổ Huệ vào Nam, sau đó ở lại định cư lập nghiệp tại Vĩnh Long, người anh th
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]