Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Trí Giác (1915 – 2005)

31/03/201218:53(Xem: 5391)
Hòa Thượng Thích Trí Giác (1915 – 2005)

HT Thich Tri Giac


Hòa Thượng
THÍCH TRÍ GIÁC
(1915 – 2005)
Trụ Trì Chùa Tam Thai – Ngũ Hành Sơn

 

Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan.

Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.

Năm Canh Ngọ (1930), được sự cho phép của mẫu thân, Ngài phát tâm xuất gia học đạo với Hòa thượng Tăng cang Thích Thiện Quả tại chùa Chúc Thánh, Hội An, lúc bấy giờ Ngài vừa tròn 15 tuổi. Sau một thời gian học Kinh, Luật với Bổn Sư, Ngài được Bổn Sư gởi vào tham học Phật pháp với Hòa thượng Thích Phổ Trí tại chùa Văn Thánh-Thị Nghè (nay thuộc quận Bình Thạnh-TP.Hồ Chí Minh). Trong thời gian này, Ngài phụ tá cho Hòa thượng Thích Đạo Thanh khai sơn chùa Pháp Hoa-Phú Nhuận và Hòa thượng Thích Trí Nghiêm trùng kiến chùa Bửu Đà-Hòa Hưng-Sài Gòn.

Năm Nhâm Thân (1932), Ngài sang tham học với Hòa thượng Thích Đạo Chương tại chùa Kim Quang-thủ đô Nam Vang, Campuchia và trợ giúp Hòa thượng xây dựng ngôi chùa này.

Năm Ất Hợi (1935), Ngài về Sài Gòn thì được tin thân mẫu lâm trọng bệnh nên về quê săn sóc phụng dưỡng cho tròn đạo hiếu. Được một thời gian ngắn thì thân mẫu qua đời nên Ngài về lại Chúc Thánh tu học dưới sự dạy dỗ của Hòa thượng Bổn Sư và thọ Sa Di vào năm Giáp Thân (1944).

Năm Kỷ Sửu (1949), Ngài được Bổn sư cho phép thọ Tỳ Kheo giới tại giới đàn Hộ Quốc được tổ chức tại chùa Báo Quốc-Huế do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Đàn đầu truyền giới. Cùng thọ giới với Ngài có các vị như Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Hòa thượng Thích Quang Thể v.v... Sau khi thọ giới về, Ngài được thỉnh cử làm trụ trì chùa Hội Phật Học Quảng Nam (nay là chùa Pháp Bảo-Hội An).

Năm Canh Dần (1950), Hòa thượng đứng ra thành lập Sơn Môn Tăng Già Quảng Nam.

Năm Tân Mẹo (1951), Hòa thượng làm trưởng đoàn Sơn Môn Tăng Già Quảng Nam tham dự Đại hội đại biểu Phật giáo Thống nhất lần thứ nhất tại chùa Từ Đàm-Huế và được bầu làm Ủy viên dự khuyết trong số 51 đại biểu.

Năm Nhâm Thìn (1952), Giáo Hội Tăng Già Quảng Nam Đà Nẵng thành lập, Hòa thượng được cử giữ chức vụ Thư ký của Giáo Hội.

Năm Giáp Ngọ (1954), Hòa thượng được cử làm trụ trì tổ đình Phước Lâm. Trong thời gian này, Hòa thượng vận động trùng tu tổ đình, đồng thời trợ duyên cho chư tôn đức trong tông môn vào theo học tại Phật học đường Ấn Quang như cố Hòa thượng Thích Như Vạn (trụ trì tổ đình Phước Lâm); Hòa thượng Thích Như Huệ (viện chủ chùa Pháp Hoa-Nam Úc); Hòa thượng Thích Chơn Phát (viện chủ chùa Long Tuyền-Hội An)...

Năm Ất Mùi (1955), Hòa thượng vận động trùng tu chùa Nghĩa Trũng, Điện Bàn và đề cử Đại Đức Thích Long Hải về trụ trì tại đây.

Năm Bính Thân (1956), Hòa thượng được cung thỉnh làm Hội trưởng Hội Phật học Quảng Nam. Trong cương vị này, Ngài đã can thiệp cho Hòa thượng Thích Pháp Nhãn khai động Quan Âm tại ngọn Kim Sơn và động Huyền Vi tại ngọn Hỏa Sơn, góp phần làm cho khu danh thắng Ngũ Hành quang rạng như ngày hôm nay.

Năm Mậu Tuất (1958), Hòa thượng được bầu làm Trị Sự trưởng Giáo hội Tăng Già Quảng Nam.

Năm Kỷ Hợi (1959), Hòa thượng được Giáo hội Tăng Già Trung Phần bổ nhiệm làm trụ trì chùa Tam Thai-Ngũ Hành Sơn. Trong thời gian này, Ngài cùng Hòa thượng Thích Trí Hữu, giám đốc Phật học viện Phổ Đà lúc bấy giờ mở thêm chi nhánh tại chùa Linh Ứng nhằm đào tạo Tăng tài cho xứ Quảng. Những Tăng sinh lúc bấy giờ hiện còn như Hòa thượng Thích Như Tín (trụ trì tổ đình Hưng Long-Sài Gòn), Hòa thượng Thích Thanh An (ở Mỹ), Hòa thượng Thích Bảo Lạc (ở Úc), Thượng tọa Thích Hoằng Khai (Quản lý tu viện Quảng Hương Già Lam-Sài Gòn), Thượng tọa Thích Thanh Thế (khai sơn chùa Thánh Đức-Lâm Đồng) v.v...

Năm Tân Sửu (1961), Ngài cùng với Hòa thượng Thích Tôn Bảo, trụ trì tổ đình Vu Lan đứng ra thành lập chùa Sư nữ Bảo Quang, Đà Nẵng.

Năm Quý Mão (1963), Phật giáo lâm vào pháp nạn, Hòa thượng cùng với chư tôn đức trong Giáo Hội.

Tăng Già Quảng Nam đồng cam cộng khổ, quyết lòng đấu tranh cho sự trường tồn của chánh pháp.

Năm Bính Ngọ (1966), một lần nữa Hòa thượng lãnh đạo Phật giáo đồ Quảng Nam đấu tranh chống hiến chương Vũng Tàu và chính sách kỳ thị tôn giáo của chế độ cũ.

Năm Đinh Mùi (1967), Hòa thượng được thỉnh làm Yết ma A-xà-lê tại giới đàn Sa Di tổ chức tại chùa Long Tuyền.

Năm Mậu Thân (1968), Hòa thượng được thỉnh cử giữ chức vụ Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam.

Năm Canh Tuất (1970), Hòa thượng được thỉnh cử làm Phó chủ đàn Đại giới đàn Vĩnh Gia, chùa Phổ Đà-Đà Nẵng.

Năm Ất Mão (1975), đất nước thống nhất, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và thị xã Đà Nẵng sáp nhập thành tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, Ban đại diện GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng hình thành, Hòa thượng được thỉnh cử giữ chức vụ Đặc Ủy Tăng sự.

Năm Canh Thân (1980), Hòa thượng Thích Như Vạn viên tịch, Hòa thượng được môn phái cung thỉnh kiêm nhiệm trụ trì tổ đình Phước Lâm-Hội An.

Năm Nhâm Tuất (1982), Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng thành lập, Hòa thượng được thỉnh cử giữ chức vụ Trưởng Ban Tăng sự liên tiếp 3 nhiệm kỳ từ năm 1982 đến 1997. Cũng trong năm này, Hòa thượng được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu truyền giới Sa Di tại chùa Pháp Bảo-Hội An.

Năm Đinh Mão (1987), tại Đại hội Phật giáo toàn quốc kỳ II GHPGVN, Ngài được tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng.

Năm Nhâm Thân (1992), trong dịp lễ khánh thành bảo tháp tổ sư Minh Hải Pháp Bảo, Hòa thượng được Môn phái suy tôn lên ngôi vị Trưởng Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh cho đến ngày Ngài viên tịch.

Năm 1992, tại Đại hội Phật giáo toàn quốc kỳ III GHPGVN, Hòa thượng được suy tôn vào Thành viên Hội Đồng Chứng Minh TW GHPGVN. Cũng trong năm này, Ngài được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu truyền giới Sa Di tại giới đàn tại tổ đình Phước Lâm-Hội An.

Năm Bính Tý (1996), Hòa thượng được Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng cung thỉnh làm Chánh Chủ Đàn đại giới đàn Phước Huệ, chùa Phổ Đà-Đà Nẵng.

Năm Đinh Sửu (1997), Quảng Nam-Đà Nẵng được tách ra thành 2 đơn vị hành chính là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Hòa thượng được ban Trị Sự Phật giáo tỉnh Quảng Nam cung thỉnh làm chứng minh Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh.

Năm Mậu Dần (1998), nhận thấy tuổi đã cao và sức khoẻ yếu dần nên Hòa thượng trở về lại tổ đình Tam Thai và đề cử Đại Đức Thích Hạnh Hoa kế vị trụ trì tổ đình Phước Lâm.

Năm Canh Thìn (2000), Hòa thượng lâm bệnh nên giao phó cho đệ tử là Đại Đức Thích Hạnh Mãn thay thế Ngài điều hành mọi Phật sự tại tổ đình Tam Thai.

Ngày 29 tháng 5 năm Ất Dậu (05/7/2005), Hòa thượng về chứng minh lễ đặt đá trùng tu tổ đình Chúc Thánh. Đây là lần cuối cùng Ngài về thăm chốn tổ, nơi mà Ngài sơ tâm học đạo.

Sau vài ngày thân thể khiếm an, vào tờ mờ sáng ngày 26 tháng 8 năm Ất Dậu (29/9/2005), Hòa thượng biết được sự ra đi của mình nên bảo thị giả lên mở cửa chánh điện, đốt trầm cúng Phật và cử chuông trống Bát Nhã. Đúng vào lúc 6 giờ Ngài đã xả báo an tường tại tổ đình Tam Thai trong tiếng hộ niệm của chư Tăng và môn đồ, thọ thế 91 tuổi và 57 hạ lạp. Bảo tháp Ngài được kiến lập bên phải phía trước tổ đình Tam Thai.

Với 76 năm xuất gia tu tập và hành đạo, bằng tất cả tinh thần “Thượng cầu hạ hóa” của một bậc Trưởng tử Như Lai và trách nhiệm thiêng liêng trong cương vị Trưởng một môn phái lớn, Ngài đã vận động trùng tu, sáng lập nhiều ngôi chùa tại quê hương đất Quảng, tạo thắng duyên trong việc đào tạo Tăng tài, xây dựng Tông môn ngày càng phát triển rộng khắp từ các tỉnh thành trong nước đến Hải ngoại. Ngài xứng đáng là bậc Long tượng trong chốn Tòng Lâm, là lương đống trong Phật pháp và là tấm gương rực sáng cho đàn hậu học noi theo.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 8030)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ An Hưng ( Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là ông Nguyễn văn Cân và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.
09/04/2013(Xem: 6685)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 11025)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 6628)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 6312)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 8085)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 6671)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 6093)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 5448)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 5481)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567