Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Như Huệ (1934-2016)

30/06/201602:50(Xem: 4103)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Như Huệ (1934-2016)

 


Chan dung Duc Truong Lao HT Thich Nhu Hue-4 (1934-2016)



Tiểu Sử
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ
Chứng Minh Đạo Sư
Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan

Trưởng môn phái Chúc Thánh Hải Ngoại


 

Hòa Thượng thế danh là Phạm Kim Huệ, sinh năm Giáp Tuất, ngày 02-4-1934 tại làng Cẩm Phô, quận Điện Bàn (nay là thành phố Hội An), tỉnh Quảng Nam, Việt Nam.

     Thân phụ của Hòa Thượng là Cụ Ông Phạm  Kim Cái pháp danh Như Thế, và Thân mẫu là Cụ Bà Nguyễn thị Di pháp danh Như Kim, đều làm nghề Đông y. Hòa Thượng là con thứ sáu trong gia đình gồm sáu anh chị em. Sinh trưởng trong một gia đình nho học, thâm tín Phật giáo, nên lúc tám tuổi Ngài được gia đình cho vào chùa học đạo.

    -Năm 1945, lúc mười hai tuổi, Hòa Thượng được Hòa Thượng Bổn sư Thích Thiện Quả, Trụ trì Tổ đình Chúc Thánh, Hội An, Quảng Nam cho thế phát xuất gia và đặt pháp danh là Như Huệ, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ bốn mươi mốt.

    -Năm 1948, Hòa Thượng được Hòa Thượng Bổn sư truyền Sa di Thập giới có pháp tự là Giải Trí, hiệu Trí Thông.

    -Năm 1950, do sự khuyến khích và giúp đỡ của Hòa Thượng Thích Trí Giác, Thầy được Hòa Thượng Bổn sư gởi vào Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang nhập chúng tu học.

    -Năm 1956, Hòa Thượng thọ Tỳ Kheo Giới với Hòa Thượng Hành Trụ tại giới đàn Giác Nguyên (chùa Giác Nguyên Nam  Việt).

    Sau khi tốt nghiệp lớp cao đẳng Phật Học và các khóa huấn luyện Giảng sư, Trụ trì (Như Lai Sứ giả), Hòa Thượng được cử phục vụ Phật sự tại các nơi:

    -Năm 1957, do nhu cầu Phật sự, Giáo hội Tăng già Quảng Nam-Đà Nẵng mời Hòa thượng về làm Trụ Trì chùa Cẩm Hà tại Quảng Nam-Đà Nẵng.

    -Năm 1958, Hòa Thượng Thích Thiện Minh gởi thư mời Hòa Thượng tham gia đoàn Giảng sư Tổng hội Phật giáo Trung phần Việt Nam, phụ trách tỉnh Khánh Hòa (Nha Trang)

    -Năm 1959, Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Trưởng ban Hoằng pháp Tổng hội Phật giáo Trung phần công cử Hòa Thượng làm Trụ Trì chùa Cầu Đất, quận Đơn Dương, tỉnh Tuyên Đức, kiêm Giáo Sư chi nhánh Phật Học Viện Nha Trang tại chùa Linh Sơn, Đà Lạt.

    -Năm 1961, Hòa Thượng được Tổng hội Phật giáo Việt Nam Trung phần tiến cử nhậm chức Giảng Sư kiêm Trụ Trì chùa Tỉnh hội Phật giáo Kon Tum. Tại đây, Ngài thành lập được hai chi hội Phật giáo Diên Bình, Tri Đạo và một trường Trung-tiểu học Bồ Đề.

    -Tháng ba năm 1963, vì tình hình đất nước biến đổi và nhu cầu Phật sự cấp bách của Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam, Hòa thượng Thích Trí Quang nhờ giáo sư Cao Tâm Nguyên mang thư lên Kon Tum với nội dung yêu cầu thuyên chuyển Hòa Thượng về lại Quảng Nam hoằng pháp thay thế Hòa thượng Thích Thiện Duyên, để Hòa thượng Thiện Duyên vào làm Hội Trưởng hội Phật giáo Quảng Tín.

     Vào tháng 5 năm ấy, Đại lễ Phật Đản tại Huế ngày 08-5-1963 (nhằm 15-4 năm Quí Mão) bị chính quyền đương thời của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đàn áp, phong trào tranh đấu của Phật giáo từ đó bùng khởi khắp nơi, Hòa Thượng được Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam mời giữ chức vụ Chủ tịch Ủy Ban Tranh Đấu Bảo Vệ Phật Giáo tỉnh Quảng Nam (lúc đó Hòa Thượng Thích Trí Giác là Chủ Tịch Ủy Ban tranh đấu Phật Giáo Giáo hội Tăng già Quảng Nam, Đà Nẵng).

    -Năm 1964, tại đại hội Bầu Ban Trị Sự Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam, Hòa Thượng được đề cử vào chức vụ Hội trưởng Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam và Ngài đã đắc cử với số phiếu 118/128 đại biểu quận, xã, ấp.

     Và cuối năm đó Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo được thành lập với danh xưng là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tại Quảng Nam, một Đại hội Khoáng đại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được diễn ra trong bầu không khí hân hoan phấn khởi, Hòa Thượng Như Huệ được chư Tăng, Ni và Phật tử bầu làm Chánh Đại Diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tỉnh Quảng Nam và được Viện trưởng Viện Hóa Đạo ra quyết định thừa nhận và đồng thời bổ nhiệm Ngài giữ chức vụ Giảng sư Viện Hóa Đạo đặc trách tại Quảng Nam. Cũng trong thời gian đó Hòa Thượng còn kiêm nhiệm nhiều chức vụ: Đặc ủy Giáo dục, Chủ tịch Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Giám Đốc các trường Trung, Tiểu học Bồ Đề tại Hội An, Điện Bàn, Đức Dục, Duy Xuyên... Quảng Nam, do Tổng vụ Giáo dục bổ nhiệm.

          Trong công tác xây dựng cơ sở Phật giáo, Hòa Thượng là sáng lập viên trường Trung-tiểu học Bồ Đề Quảng Nam, nay nhà nước Việt Nam xử dụng và đổi tên là trường Trung học Nguyễn Duy Hiệu.

     Hòa Thượng đã vận động vật liệu giúp đỡ Thượng Tọa Thích Như Vạn đại trùng tu Tổ đình Phước Lâm xã Cẩm Hà, và  xây trường Tiểu học Bồ Đề Xuân Mỹ xã Cẩm Phô tỉnh Quảng Nam; đệ trình và đề nghị Hòa Thượng Thích Minh Châu Tổng Vụ trưởng Giáo dục Phật giáo giúp ngân sách để xây dựng hai trường Tiểu học Bồ Đề cho hai quận Đại Lộc và Duy Xuyên (hai ngôi trường đó nay thành cơ sở hoằng pháp của Giáo hội tại hai quận nầy).

    -Năm 1975, trong giai đoạn vô cùng khó khăn về mọi mặt của Giáo Hội, Hòa Thượng vẫn được Anh chị em Huynh trưởng và Đoàn sinh Gia đình Phật tử liên tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Đà Nẵng tín nhiệm cung thỉnh đứng ra lãnh đạo Gia đình Phật tử với chức vụ Đặc ủy Thanh niên kiêm Trưởng ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Quảng Nam-Đà Nẵng trên hai trăm gia đình với trên hai mươi ngàn đoàn sinh.

    -Năm 1980, Hòa Thượng vào Sài Gòn rồi vượt biên trên một chiếc thuyền mong manh lênh đênh giữa biển cả, sau 16  ngày mới được tàu Na Uy vớt đưa về Nhật.

    -Năm 1982, do Thượng Tọa Thích Như Điển giới thiệu Hòa Thượng sang Úc hành đạo; Hội Phật giáo Việt Nam Nam Úc (Hội trưởng lúc đó là Đạo hữu Thiện Liên - Nguyễn văn Tươi) đã bảo lãnh Hòa Thượng về đây với trọng trách lãnh đạo Hội Phật Giáo Việt Nam Nam Úc kiêm Trụ Trì chùa Pháp Hoa, Adelaide, và Ngài đã đến nhậm chức vào ngày 03-6-1982. Lúc đó chùa Pháp Hoa còn là một ngôi nhà “cải gia vi tự” , tại số 83 Addison road, Rosewater, S.A 5013.

     Khi nghe Hòa Thượng đến lãnh đạo Hội Phật Giáo Việt Nam Nam Úc,  Hòa Thượng Thích Phước Huệ Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan có viết thư đăng báo chúc mừng và yêu cầu Ngài soạn thảo bản tu chỉnh Hiến Chương, đệ trình Nội Qui Tổng Hội, đồng thời soạn tài liệu giáo lý căn bản và mở khóa Phật Pháp dạy cho Phật tử các tiểu bang.

    -Năm 1983, tại Đại hội Khoáng đại Tổng hội Phật giáo Việt Nam Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan kỳ I, Hòa Thượng được Đại Hội cử làm  Phó Hội Chủ kiêm Tổng Vụ Trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp của Tổng Hội.

     Cùng năm 1983, sau chuyến hoằng pháp các tiểu bang về lại Nam Úc, Hòa Thượng triệu tập một phiên họp khoáng đại để lấy ý kiến chung về việc mua đất và xây chùa, toàn thể Phật tử rất hân hoan phấn khởi đồng ý thành lập ban vận động, ban tái thiết và cung thỉnh Ngài làm Trưởng ban. Hòa Thượng là người khai sơn ngôi Tân Pháp Hoa Tự ngày nay, gồm có: Chánh Điện, Tổ Đường, Tăng Đường, Pháp Xá, cơ sở nào cũng rộng rãi khang trang đượm sắc thái văn hóa Phật giáo và dân tộc Việt, tọa lạc tại số 20 Butler Avenue, Pennington S.A  5013.

         -Năm 1986, tại Đại hội Khoáng đại kỳ IV, toàn Ban Trị Sự Hội Phật Giáo Việt Nam  Nam Úc nhất trí chuyển giao sự lãnh đạo Phật giáo cho Giáo hội và cung thỉnh Hòa Thượng làm  Hội trưởng Hội Phật Giáo Việt Nam Nam Úc 

     -Năm 1987, tại đại hội khoáng đại Thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan, Hòa Thượng được Đại Hội cung cử giữ chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hoằng Đạo, kiêm Tổng Vụ Trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan.

    -Năm 1989, Đại hội Khoáng đại  kỳ V, Hội Phật Giáo Việt Nam Nam Úc đổi danh xưng Hội Phật Giáo Việt Nam Nam Úc thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Nam Úc và Hòa Thượng được cung thỉnh làm  Giáo Hội Trưởng.

    -Ngày 27-01-1996 (nhằm ngày Đức Phật thành đạo mùng 8 tháng 12 năm Ất Hợi) Ngài được Giáo hội suy tôn lên ngôi Hòa Thượng A  Xà Lê.

Hòa Thượng có nhiều đệ tử xuất gia đang lãnh đạo hoặc đang tu học tại các tự viện, học viện ở Việt Nam như: Quí Hòa Thượng Thích Hạnh Đức, Hòa Thượng Thích Hạnh Thiện, Hòa Thượng Thích Hạnh Niệm, Đại Đức Thích Hạnh Ngộ, ĐĐ Thích Hạnh Trung (Viên Thành), ĐĐ Thích Hạnh Quang ( hiện đang Tu ở Rừng Thiền Viên Không, Núi Dinh Bà Rịa Vũng Tàu, ĐĐ Hạnh Không (Thị Hạnh) mới viên tịch), Ni trưởng Thích Nữ Thị Minh (Khiết Minh), Ni trưởng Thích Nữ Hạnh Khương (Huệ An), Ni trưởng Thích Nữ Hạnh Tịnh, Ni trưởng Thích Nữ Hạnh Ngọc, Ni trưởng Thích Nữ Hạnh Phước....

    -Năm 1999, tại Đại Hội Khoáng Đại kỳ VIII Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tổ chức tại Hoa Kỳ, Hòa Thượng được cung cử giữ chức vụ Đại Diện Viện Hóa Đạo Giáo hội  Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Úc châu và Tân Tây Lan.

     Tháng 9 năm 1999, tại đại hội Thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan nhiệm kỳ đầu (1999-2003) tổ chức tại Sydney, Hòa Thượng cũng được Đại Hội cung thỉnh giữ chức vụ Hội chủ  Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại Úc Đại Lợi -Tân Tây Lan.

    -Năm 2000, Hòa Thượng phát nguyện đứng ra tổ chức mùa An cư Kiết hạ  đầu tiên cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan, và đây cũng là mùa An cư Kiết hạ lịch sử đầu tiên của Phật giáo Việt Nam trên nước Úc và Tân Tây Lan nói chung, hơn ba mươi chư Tăng, Ni các nơi về tham dự, Đạo Tràng rất trang nghiêm, thanh tịnh và an lạc.

- Năm 2003, Hòa thượng giao chức vụ Trụ Trì cho ĐĐ Thích Viên Trí, và Hòa thượng làm Phượng Trượng Tổ đình Pháp Hoa.

- Năm 2009, do sự chuyển biến Giáo hội các châu và trong nước, nên Hòa thượng cùng chư Tăng, Ni hải ngoại thành lập Văn Phòng Điều Hợp Phật giáo Liên Châu gồm có Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Úc và Canada.

- Tháng 5/2015, Đại Hội Khoáng Đại kỳ 5 của Giáo Hội PGVNTNHN UĐL-TTL tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Hòa thượng xin nghỉ chức vụ Hội Chủ mà Ngài đã lãnh đạo trong suốt thời gian 16 năm qua, và Ngài được đại hội cung thỉnh vào ngôi vị Chứng Minh Đạo Sư của Giáo Hội.

Vào đầu tháng 3 năm 2016, Hòa Thượng cảm thấy pháp thể khiếm an, mặc dù được các hàng đệ tử, các bác sĩ tại Bệnh Viện Queen Elizabeth, Adelaide, Nam Úc, tận tình chăm sóc, nhưng vì tuổi cao sức yếu, Đức Trưởng Lão không qua khỏi, Ngài đã thuận thế vô thường, xả báo thân vào lúc 9 giờ 25 tối ngày thứ Năm, 23/06/2016 (nhằm ngày 19/5/Bính Thân) tại Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc, thế thọ 83 tuổi, 60 hạ lạp.

Suốt cuộc đời, từ khi xuất gia hành đạo cho đến lúc viên tịch, Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ đã nỗ lực không ngừng trong công việc xiển dương đạo pháp từ quê nhà Quảng Nam quốc nội cho đến hải ngoại. Cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời về đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa cho Tăng ni và Phật tử noi theo. Mặc dù sắc thân của Ngài không còn nữa nhưng đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa của Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Tăng Ni Phật tử Việt Nam ở mai sau.

Nam Mô Tự Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhất Thế, Pháp Hoa Tổ Đình Phương Trượng, Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại Chứng Minh Đạo Sư, húy thượng Như hạ Huệ, tự Giải Trí hiệu Trí Thông Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám.



K y Yeu Tang Le HT Nhu Hue-2





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/02/2013(Xem: 6691)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5341)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4855)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5249)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6085)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5912)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9198)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 4893)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 5180)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
21/09/2012(Xem: 9044)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh. Thân hình Ngài có những đặc điểm khác thường, nhất là có màu vàng, nên được vua cha đặt cho biệt hiệu là Phật kim.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567