Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng Niệm Hòa thượng Thích Trí Thủ

10/03/201204:11(Xem: 7244)
Tưởng Niệm Hòa thượng Thích Trí Thủ

HT_Tri_Thu_3


TƯỞNG NIỆM
Hòa thượng Thích Trí Thủ
(I)

Thời gian trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ! Mới hôm nào mà Hòathượng Thích Trí Thủ đã tiễn chân tôi ra sân bay đi Hà Nội để giảng cho trường Cao cấp Phật học tại chùa QuánSứ, mà bây giờ đã gần đến ngày giỗ đầu của Hòa Thượng.

Nhữngba năm, mỗi trang lịch sử dần dần đi vào dĩ vãng, nhưnglại vướng đọng trong lòng tôi nỗi ngậm ngùi, tiếc thương;tiếc thương về một bóng hình, một bóng hình in đậm vàotâm hồn tôi và chắc chắn cũng khắc sâu vào tâm hồn củaTăng Ni và Phật Tử; cho dù trước giờ phúc giã biệt thântứ đại trở về cõi an nhiên tự tại, Hòa thượng đã khôngđể lại một lời.

Tôinhớ rõ và thật sự súc động cái sáng sớm mồng 3 tháng3 năm Giáp Tý ấy, lúc tôi đang ở tại chùa Quán Sứ, bỗngnhận được tin Hòa thượng đã vĩnh viễn ra đi và xa tấtcả chúng ta.

Từđó đến giờ vẫn trong hình ảnh "Nhạn quá trường gian,ảnh trầm hàn thủy, nhạn vô lưu tích chí ý, thủy vô lưuảnh chi tâm". Nhưng thật ra, bóng nhạn vẫn chập chờn vớidòng sông và dòng sông đang gợn sóng theo bóng nhạn. Cảnhsắc sắc không không hàng ngày vẫn vơi đầy nhớ kẻ trồngcây.

Tuầnqua, tôi lại nhận được thư của anh em ở các Phật họcviện và Pháp tử của Hòa thượng ngỏ ý cùng nhau ghi lạimột số tâm tình về Hòa thượng và đề nghị tôi viếtcho lời Mở đầu để gọi là chút truy niệm ngày giỗ đầucủa người đã khuất.

Thấytinh thần của anh em, tôi hết sức mừng. Đây là điều đángduy trì và phát huy. Tục ngữ ta có câu "Ăn trái nhớ kẻ trồngcây" hay "Uống nước nhớ nguồn". Nhớ ơn và đền đáp côngơn đó cũng là quy luật đạo đức và đó cũng là hạnh nguyệnlớn của hành giả trên bước đường tu đạo.

Tuynhiên, đây vẫn chỉ là một trong muôn ngàn cách biểu lộlòng biết ơn đối với những vị dày công đóng góp cho Đạopháp, cho Dân tộc và ngay cả cho mỗi chúng ta. Ta thường nghe"Ngôn ngữ đạo đoạn". Lời sẽ hạn chế đạo, hình thứclắm khi cũng làm giảm thiểu ý nghĩa. Cảm quan ta, ngôn từta, sẽ lúng túng, vụng về trước tác phẩm của vạn vật,trước những công đức "hành vô hành hành". Nhưng có điềutôi cũng đồng ý với anh em "bất ngôn, thùy tri kỳ chi". Vìthế, càng viết càng thấm, càng thấm càng cảm, càng cảmcàng thương, mối giao cảm sẽ tỏa ngời ánh sáng, tươngquan liên hệ mật thiết như nước với nguồn, nguồn vớinước, kẻ ăn trái người trồng cây có thể tiếp cận nhau,gặp gỡ nhau trông không gian đích thực của dòng sinh diệt,diệt sinh vẫn chung về một nẻo.

Cóđiều đáng làm tôi lo lắng, lễ giỗ đầu của Hòa thượngcũng đã gần kề, liệu chúng ta có thực hiện được nhưý nguyện? Dù sao những cánh chim nơi mọi phương trời vẫnnhớ về tổ ấm, ta đã, đang và sẽ mãi mãi không quên mộtbóng hình đáng kính, đáng thương. Nhớ và tưởng niệm Hòathượng trong niềm chân thành, với nén hương, với bình hoađơn giản của nhà Thiền dâng cúng Hòa thượng. Ta mong ướcnhư Hòa thượng từng ước mong "Sinh sinh dự Phật vi quyếnthuộc, xứ xứ Bồ-đề kết thiện duyên".

Ngànxưa và ngàn sau trăng vẫn sáng, có đâu "Trăng lặng về nonkhông trở lại", đường về xứ Phật vẫn tỏa ngát mùisen. Xuất phát từ ý thức này nơi cõi Lạc Bang, Hòa thượngcũng nở nụ cười hoan hỷ chúng minh lòng thành của tấtcả chúng ta.

Huế,rằm tháng Giêng, Đinh Mão
Pháplữ: Hòa thượng Thích Thiện Siêu.
Cẩnniệm

(II)

Giờđây, trước Giác Linh trang nghiêm của Cố Đại lão Hòa thượng,tất cả Tăng Ni Phật tử chúng ta đang còn mang nặng trongtâm tư nỗi niềm bùi ngùi xúc động, thương tiếc và tưởngnhớ một vị Cao Tăng, một bậc Thầy đạo hạnh cao thâm,chí nguyện kiên trì, trọn đời hiến mình cho Đạo pháp vàDân tộc. Với cố Giác linh Hòa thượng, chúng ta tất cảnhững người đã gần gũi, những người đã thọ ân Pháphóa, không ai không khắc cốt ghi tâm những nụ cười hoanhỷ, những dáng điệu vui tươi, những cái nhìn từ mẫn,những câu nói hiền hòa đậm đà đạo lý. Nên một khi ngheHòa thượng viên tịch, tất cả Tăng, Ni và Phật tử nơinơi không ai cầm được giọt lệ, như thấy mình đã mấtmột bóng cây đại thọ che mát, như thấy mình thiếu khátnhững giọt nước cam lồ, như thầy mình không còn nơi nươngtựa. Sự xúc động, sự nghẹn ngào đã dâng trào khắp tấtcả mọi hàng Tăng Ni, Phật tử.

Ởtrong chùa, ở giữa đường, ở ngoài chợ, sau khi Hòa thượngviên tịch, tất cả đều nghĩ đến công hạnh lớn lao, chínguyện cao cả của Hòa thượng đã ban bố cho hàng Tăng Ni,Phật tử. Nên đối trước công hạnh lớn lao đó, dầu cónói mấy cũng không cùng, dầu có tả mấy cũng không hết,nên chúng ta lắng lòng suy tư, lắng lòng nhớ tưởng, chúngta mới thấy rõ được những nét cao siêu, những nét thâmhuyền, những nét đạo hạnh nơi Hòa thượng. Hòa thượngluôn luôn phát nguyện rằng:

"Mộtlòng kính lạy Phật-đà
Đờiđời con nguyện ở nhà Như Lai,
Conhằng mặc áo Như Lai,
Conngồi pháp toạ Như Lai muôn đời".

Đólà một lời nguyện thâm sâu phát xuất từ kinh Pháp Hoa, vớiý nghĩa nhà Như Lai là tâm Đại từ bi. Áo Như Lai là Nhấtthiết pháp không. Đại từ bi là đại bi, nhu hòa nhẫn nhụclà đại hùng, nhất thiết pháp không là đại trí. Hòa thượngđã lấy câu trong kinh Pháp Hoa làm chí nguyện cao cả củamình, suốt đời tuân theo, suốt đời hành đạo. Nhờ đómà trải qua bao nhiêu việc làm của Hòa thượng đều mangmột sắc thái đậm đà đạo lý, mang một sắc thái tự lợilợi tha, ích đời lợi đạo.

Dùtuổi đời đã bảy mươi sáu, nhưng Hòa thượng vẫn mỗibuổi sáng dậy thật sớm: hai giờ rưỡi, uống nước, tắmrửa rồi đi vào chùa lễ Phật 108 lạy trên một giờ đồnghồ, rồi lại tiếp tục trì chú thêm một giờ đồng hồnữa. Sự tu niệm chuyên cần đó không phải chỉ một ngày,hai ngày, mà luôn luôn hàng cả hai ba chục năm, không phảiở chùa mình mà bất cứ ở chùa nào, sáng nào cũng làm ynhư thế, không phải ở trong nước mà trong khi đi ra nướcngoài dự Đại hội, làm những việc Phật sự, Hòa thượngvẫn giữ công hạnh đó. Qua các công hạnh đó để thấyrõ rằng chí nguyện Hòa thượng sâu xa biết chừng nào. Nếungược lại, một chí nguyện mỏng manh hời hợt, thì làmsao thực hiện được một đạo hạnh thâm sâu lâu dài nhưthế. Một điều ấy cũng đủ cho tất cả hàng Tăng Ni, Phậttử chúng ta đời đời ghi nhớ, tất cả hàng Tăng Ni, Phậttử chúng ta đời đời noi gương Hòa thượng và kính lạybao nhiêu lạy cũng không vừa. Huống chi Hòa thượng khôngphải chỉ nghĩ riêng việc lợi mình giải thoát, còn nghĩtới việc hoằng đạo lợi sinh, dìu dắt Tăng Ni trên đườngChánh pháp. Hòa thượng từng tổ chức bao nhiêu Phật họcđường: Linh Quang, Báo Quốc (Huế), Phổ Đà (Đà Nẵng), HảiĐức (Nha Trang), Già Lam (Sài Gòn), đào tạo những lớp TăngNi nhỏ, đào tạo những lớp Tăng Ni lớn. Hòa thượng đãđeo đuổi công hạnh đào tạo Tăng Ni của mình suốt bao chụcnăm trường không biết mỏi mệt.

Nhờđức tính từ hòa, hoan hỷ, bao dung, ngồi với Hòa thượngthì Hòa thượng trở thành Hòa thượng, đối với thanh niênthì Hòa thượng trở thành thanh niên, đối với Tăng trẻHòa thượng trở thành người trẻ, đối với em bé Hòa thượngcũng nói chuyện vui vẻ như một em bé. Do vậy mà bao nhiêunăm Hòa thượng sống với Chúng Tăng không phải toàn là nhữngngười tu đạo lâu ngày, mà những người mới nhập đạocó, những người đi sâu trên con đường tu niệm có, nhữngngười mới phát tâm có, tính tình mỗi người mỗi nết,đức hạnh mỗi người mỗi cách, thế mà Hòa thượng baodung được tất cả dưới sự nâng niu giáo dục của mình,không từ bỏ một ai. Người có khả năng, Hòa thượng nângđỡ theo khả năng; người khả năng kém, Hòa thượng nângđỡ theo khả năng kém, không để cho ai trở thành ngườivô dụng. Đó là một công đức lớn lao, một chí nguyệncao cả, một tấm gương sáng để hàng Tăng Ni, Phật tử chúngta soi sáng noi theo muôn đời không hết.

Trongkhi tổ chức giáo dục Tăng Ni, Hòa thựong đã có những cáinhìn xa thấy rộng, không phải chỉ gò bó trong một cách cổxưa, mà nâng đỡ Tăng Ni, giáo dục Tăng Ni có những kiếnthức, những đức hạnh thích hợp với hoàn cảnh, với thờithế để phụng đạo lợi đời. Hòa thượng đã từng khaimở đường lối đưa Tăng Ni đi thi để có những Văn bằngTiểu học, Trung học, rồi bằng Đại học, đủ phương tiệnđể tuyên dương Chánh pháp. Không phải chỉ lo mặt tinh thần,Hòa thượng còn lo mặt vật chất cho Tăng Ni, đi đâu cũngmở những cơ sở kinh tế tự túc để cho Tăng Ni vừa làmvừa học, vừa nuôi sống thể chất, vừa nuôi sống tinh thần,để cho một người vừa có đủ cả hạnh, cả bi, cả thể,không thiếu mặt nào.

Hòathượng cũng đã góp chung với tất cả đồng bào, thươngyêu Tổ quốc, làm những điều mình có thể làm được, trảiqua bao thời đại, cho nên khi nghe tin Hòa thượng viên tịch,không những chỉ những hàng Tăng Ni, mà Phật tử trong đạocũng bùi ngùi xúc động. Cố lắng lòng ôn lại những ánhmắt từ hòa, những cử chỉ êm đềm và những tâm tư rộngrãi, quảng đại, chúng ta mới nhớ hết được những côngđức cao dày, những công hạnh sâu xa của Hòa thượng, vàcố noi theo công hạnh của Hòa thượng để thực hành bướclên con đường sáng suốt lợi mình, lợi đạo, lợi đời,chúng ta mới có thể báo đáp được công đức của Hòa thượngmột phần nào.

Hômnay trước linh đài trang nghiêm, hàng Tăng Ni, Phật tử chúngta vô cùng thành kính để tưởng niệm công đức Hòa thượng,làm lễ ngày chung nhất, chúng ta cầu mong Hòa thượng Cao đăngPhật quốc, hồi nhập Ta Bà, để dìu dắt chúng ta bướcthêm những bước dài trên con đường đạo.

Lờicảm niệm của Hòa thượng Thích Thiện Siêu
tronglễ chung thất Hòa thượng Thích Trí Thủ
20-4năm Giáp Tý (25-5-1984).

(III)

Hômnay, vừa đúng hai năm sau ngày Hòa thượng an nhiên quy tịch.Hai năm hàng Tăng Ni, Phật tử chúng tôi phải trải qua nhữngngày tháng trống vắng một bậc Cao Tăng, một vị thầy đạohạnh tôn kính, có dáng mạo đoan nghiêm, đạo phong thanh thoát,thái độ ân cần thân mật, hoan hỷ, bao dung, có nụ cườiấm mát tươi vui, biết quý người có học, có đức nhưngkhông khinh chê người kém cõi, sẵn lòng giúp đỡ mọi người,không phân biệt việc lớn việc nhỏ, miễn thấy có lợicho đạo cho người, ứng hợp với lòng từ bi thì không hềtừ chối. Không ưa sống cuộc sống riêng lẻ cô tịch màưa sống hòa mình vào đời sống của đại chúng để dìudắt họ, sống giữa Chúng Tăng đông đảo, cùng ăn với họ,thậm chí có khi đi tắm biển, đánh ping-pong với họ, nhưngkhông vì vậy mà làm mất vẻ uy nghi, phai mờ đạo hạnh,bỏ lơi thời khóa biểu tu trì, vun bồi đạo nghiệp.

Đãsẵn mang hoài bão thừa Như Lai sứ, nên hễ gặp Phật sựgì đòi hỏi, Hòa thượng đều sẵn sàng vui vẻ gánh vác,không luận chức vụ gì. Khi làm Trú trì, khi Giáo sư, Giảngsư, Thư ký, Hội trưởng. Khi Viện trưởng [1], khi Chủ tịch[2], nhưng không hề có sự mâu thuẫn giữa chức vụ này vớichức vụ kia, vì trước sau trong tâm tư Hòa thượng cũng chỉđeo đuổi một mục đích chí nguyện hoằng dương Chánh pháp,lợi lạc quần sinh, thương yêu Tổ quốc đồng bào với tinhthần vô ngã vị tha, với hạnh Phổ Hiền, thượng cầu hạhóa, với đức tính tịnh mà không trầm, động mà không loạn,ở trên người mà không thấy nặng, ở dưới người mà khôngthể khinh, Hòa thượng đã hiến trọn đời mình cho Đạopháp, cho Dân tộc, cho nhân loại, cả trong nước lẫn nướcngoài theo lời thệ nguyện mà Hòa thượng đã nêu cao từtrước:

"Đốtnén tâm hương trước Phật đài,
PhổHiền hạnh cả nguyện đừng sai.
Biếnthân cát bụi thần thông hiện,
Chữabệnh trầm kha khắp mọi loài."
Kínhbạch Giác linh Hòa thượng,

Hômnay, trước Bảo tháp uy nghi, Giác linh tịch mặc, chúng tôiđồng tâm kính thành tưởng niệm, ngưỡng mong Giác linh Hòathượng thùy từ chứng giám.

Lờicảm niệm trong ngày Đại tường 1-3-1986.

Chúthích:

[1]Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN trước năm 1975.
[2]Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN sau năm 1980.

(IV)

Hòathượng họ Nguyễn húy Văn Kính, Pháp danh Tâm Như, tự ĐạoGiám, hiệu Thích Trí Thủ, sinh ngày 19 tháng 09 năm Kỷ Dậu(1909) tại Trung Kiên, Quảng Trị. Mười bảy tuổi xuất gia,hai mươi tuổi thọ Cụ túc giới, tự pháp đời thứ 43 pháithiền Lâm Tế.

Vớichí nguyện thượng cầu hạ hóa, Hòa thượng là một trongnhững vị đi đầu trong các cuộc chấn hưng Phật giáo nướcnhà. Mở nhiều Phật học viện, trùng tu nhiều Phạm vũ, khaisơn Quảng Hương Già Lam. Mở nhiều Đại giới đàn và phiêndịch giảng giải kinh, luật luận. Hòa thượng không ngừngtiếp dẫn hậu lai cho Tăng tín đồ được nhờ ơn Pháp vũ,xuất thế tinh chuyên đã vậy. Nào quên nhập thế độ sanh,dẫu tuổi già chẳng ngại dấn thân, hạnh Phổ Hiền lợiđời lợi đạo, biết sự thế lắm phen khe khắt. Tâm hồnluôn hoan hỷ bao dung, mãn cơ duyên chuyển thân tứ đại trảvề đây. Song thọ Ta-la chúng sinh đồng truy niệm.

Nhưthị chân như thị huyễn.
Nhưthị công đức trang nghiêm.

(Hòathượng viên tịch ngày mồng 2 tháng 3 năm Giáp Tý (1984). Thápbia hoàn thành ngày 19- 9 năm Ất Sửu -1985).

Thất chúng đệ tử phụng lập
Kính ghi: Hòa thượng THÍCH THIỆN SIÊU.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8125)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4950)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37283)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6162)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6120)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5763)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5648)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5927)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5462)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8779)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]