Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Pháp Viên (1911-1988)

05/02/201206:11(Xem: 5791)
Hòa Thượng Thích Pháp Viên (1911-1988)
 Hòa Thượng Thích Pháp Viên (1911-1988)
image

Sáng ngày 24 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (23.02.2014), thượng tọa Thích Quảng Tâm, Ủy viên Ban Nghi lễ GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, trụ trì chùa Thanh Hải, xã Cam Thịnh Đông, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa cùng chư tôn đức môn đồ pháp quyến, thân tộc, đệ tử và phật tử đạo tràng chùa Linh Thứu, chùa Linh Quang (Nha Trang) đã thành kính tưởng niệm húy nhật lần thứ 26 cố Hòa thượng Bổn sự Thích Pháp Viện.

 

Hòa Thượng Thích Pháp Viên, húy thượng Nguyên hạ Thành, tự Thiện Châu thuộc dòng Lâm Tế  Liễu Quán, đời thứ 44. Ngài thế danh Phạm Nại, sinh năm Tân Hợi (1911), tại thôn Đại Điền Trung, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Thiếu thời ngài thường cùng bà con bổn đạo phật tử tứ thôn Đại Điền về Chùa Thiên Quang, làng Phú Lộc phát tâm làm công quả.

Năm 1946, nhân gặp lúc Hòa thượng Thích Nhơn Hưng, từ Chùa Khánh Long, Ba Ngòi về sắp đặt Phật sự tại chùa Tổ Linh Quang, quê nhà Đại An, Am Chúa, thôn Đại Điền Trung, xã Diên Điền (Diên Khánh). Trong thời loạn lạc, chùa chiền, đền miếu, ruộng nương … bị chiến tranh Pháp-Nhật o ép; cộng với lòng đau thương của cảnh gia đình, thân tộc kẻ mất người còn, và sự mất mát của người anh thứ hai hy sinh cho chiến tranh. Ngài hiểu được lý vô thường, nhận thấy duyên lành đã đến liền phát khởi ý niệm theo thầy xuất gia học đạo. Bổn sư hứa khả và đưa vào chùa Khánh Long, thôn Trà Long, Ba Ngòi (Cam Ranh) làm lễ thế phát xuất gia.

Đúng là:”Phù xuất gia giả phát túc siêu phương. tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạc tế tam hữu” Ngài ở đây đối với bổn sư vừa là thầy và cũng là bác trong dòng tộc, nên từ đó hết lòng chăm lo tu tập.

blank

Năm Nhâm Thìn, (1952), với oai nghi đỉnh đạc, hạnh nguyện sâu dầy, ngài được Hòa thượng Bổn sư cho thọ Đại giới tại Tổ đình Thiên Bửu, Ninh Hòa, do Tăng cang Hòa thượng Thích Phước Huệ, trụ trì chùa Sắc tứ Hải Đức,  làm Hòa thượng Đường đầu truyền giới.

Sau nhiều năm tháng hầu bổn sư và chăm lòng kinh kệ, đã được bổn sư cùng hàng huynh đệ đề cử làm “ Giám tự ” chùa Thanh Sơn (Núi Dốc Lân, Sở Dừa, xã Cam Thịnh, Cam Ranh). Ngài vừa tu tập, vừa lo phật sự thế bổn sư và làm kinh tế, tăng gia sản xuất nông nghiệp, khai phá thêm khu vườn chùa và vận động mua thêm ruộng để canh tác lương thực nuôi tăng chúng.

Khi có thời gian, ngài xin phép bổn sư tham học với ngài Thích Hạnh Chức, trụ trì Chùa Phước Long, (Diên Toàn) và tham học với ngài Thích Hạnh Giác, trụ trì chùa Thiên Quang, (Phú Lộc, Diên Khánh).

Thời gian ngài hành đạo nhiều nhất là tại chùa Thanh Sơn trên núi Dốc Lân vừa tu học vừa canh tác vườn ruộng của chùa giúp cho bổn sư chăm lo Phật sự tại đây nên Phật tử và nhân dân thân quen thường gọi với cái tên dân giả là “ Ông Giám Năm ”

blank

Năm 1962, Hòa thượng Bổn Sư Thích Nhơn Hưng giao hẳn kế thừa trụ trì Chùa Thanh Sơn. Nhưng sau đó Chùa lại phải lại xuống làng. Đây là dời chùa lần thứ 5 vì lúc này tình hình chiến sự ác liệt. Chùa Thanh Sơn lại nằm vùng núi tiếp giáp các vòng tuyến của 3 tỉnh: Lâm Đồng - Ninh Thuận - Khánh Hòa. Nên  Tăng chúng và bổn đạo quá vất vả, cơ cực, nhọc nhằn.. mới lo cho chùa trọn vẹn, người còn chiếc áo tu thì phải ở tù; người thì lên núi thoát ly làm cách mạng, người lại theo…

Cuối năm Ất Tỵ (1966) chú ruột  của ngài là thầy “ Thủ Khánh ” tức Thích Pháp Ngữ, đang trụ trì Chùa Khánh Phước, Hòa Do, xã Cam Phúc (Cam Ranh) đột ngột viên tịch. Nỗi đau của chùa chưa nguôi ngoai, lại chồng chất thêm niềm buồn riêng thúc phụ cứ đến, Hòa thượng bổn sư ngày càng già yếu, mà ý còn muốn mong có ngày tháng quê hương yên bình để trở lại cảnh chùa xưa bên chân núi…

Đầu năm Bính Ngọ (1966), được bổn sư hứa khả và phật tử phát tâm nên đã mua đất tại Xóm Mới tạo được cơ sở tạm thời để có nơi ăn ở, tu học, mong qua cơn khói lửa của quê hương. Vâng lệnh bổn sư ngài vào tại Xóm Mới, Cam Thịnh Đông, (Cam Ranh) tìm đất lập chùa ngài đã cung thỉnh Hòa thượng Thích Nhơn Hưng khai sáng ngôi chùa mới và an danh là " Thanh Hải Tự ". Đây là ngôi chùa thứ 6, Hòa thượng Thích Nhơn Hưng chứng minh sáng lập, trong bước đường hoằng dương phật pháp.

blank

Năm 1967 xây dựng chánh điện, năm 1968, đúc Đại Hồng chung. Năm 1970 xây nhà tổ và ngày mùng 2 đến mùng 4 tháng 8 năm Canh Tuất 1970 làm lễ khánh thành.

Chùa Thanh Hải được lập thành lập trong lúc dân cư làng “ Xóm Mới ” còn thưa thớt, nhưng đã hoàn thành được tâm nguyện của bổn sư với một lòng nhất y, nhất thuận.

Ngày mùng 7 tháng 5 năm Tân Hợi (1971) Hòa thượng Thích Nhơn Hưng thuận thế vô thường, an tường viên tịch. Ngài xây tháp phụng thờ cư tang, báo ân sư trưởng, viên mãn:

“Ân giáo dưỡng một đời nên huệ mạng

Nghĩa ân sư muôn kiếp khó đáp đền”

blank

Năm 1975 lịch sử sang trang

Năm 1978,  chùa Thanh Hải , tạm đóng cửa và sau đó dùng làm Ủy Ban Nhân Dân xã Cam Thịnh Đông. Rồi sự thế vô thường, tất cả đều theo quy luật thành trụ hoại không, do tuổi cao, sức yếu, Hòa thượng Thích Pháp Viên, húy thượng Nguyên hạ Thành đã an tường viên tịch ngày 24, tháng Giêng, năm Mậu Thìn (1988), tại Chùa Khánh Quang, Tỉnh hội Phật Giáo Hậu Giang, (Cần Thơ), Miền Tây Nam Việt. Trụ thế 78 năm, hạ lạp 40 năm. Sau đó môn đồ đệ tử là Tỳ kheo Thích Quảng Tâm và thượng tọa Thích Chơn Kiến thỉnh linh cốt về tôn trí tại Chùa Thiên Phú, Nha Trang (Khánh Hòa)

Hàng môn phong , đệ tử dâng câu đối truy tán công đức của Hòa thượng bổn sư

" Khi xưa, Chùa Thanh Sơn , Sở Dừa bên núi ngắm trăng trong gió mát thảnh thơi ; Từ độ Chùa Thanh Hải , Xóm Mới  cảnh quê nhà  dẫu biển  sóng  triều   lãng đãng hết lòng xây dựng bỏ chuyện buồn, phải chăng lòng đạo trắng ngần truyền Đệ tử "

" Ban đầu, Chùa Khánh Long, Ba Ngòi hầu thầy tụng kinh vàng kệ ngọc ngân nga; Lúc già Chùa Khánh Quang , Cần Thơ  nơi xứ lạ cùng bạn ngày tháng  thênh thang  nhẹ bước thong dong theo dấu Phật . Nghiệm biết lý vô thường hay cho Còn Mất "

blank

Ngày 24 tháng Giêng năm Tân Mão (2011), Môn đồ thỉnh Linh cốt từ Chùa Thiên Phú, Nha Trang về tôn trí tại tháp Tổ chùa Thanh Hải (Cam Ranh). Mong ngày về chốn xưa nơi Chùa Núi-Thanh Sơn Tự.

Sáng ngày 24 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (23.02.2014), thượng tọa Thích Quảng Tâm, Ủy viên Ban Nghi lễ GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, trụ trì chùa Thanh Hải, xã Cam Thịnh Đông, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa cùng chư tôn đức môn đồ pháp quyến, thân tộc, đệ tử và phật tử đạo tràng chùa Linh Thứu, chùa Linh Quang (Nha Trang) đã thành kính tưởng niệm húy nhật lần thứ 26 cố Hòa thượng Bổn sự Thích Pháp Viện.

NAM MÔ TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG, TỨ THẬP TỨ THẾ THANH HẢI TỰ , TRỤ TRÌ Húy thượng NGUYÊN hạ THÀNH tự THIỆN CHÂU hiệu PHÁP VIÊN Hòa Thượng Giác linh thuỳ từ chứng giám

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 14858)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 8486)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8575)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10240)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14156)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8343)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 17082)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11951)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16676)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12791)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]