Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Nhân Tông: Nước Phật Xuân Không Cùng

09/10/201120:16(Xem: 3635)
Trần Nhân Tông: Nước Phật Xuân Không Cùng
Tran Nhan Tong
TRẦN NHÂN TÔNG:

NƯỚC PHẬT XUÂN KHÔNG CÙNG
Nguyễn Thế Đăng

“ Lúc này ngài lại đi khắp các ngọn núi.

Bảo Sát thưa rằng, ‘Tôn đức tuổi đã cao mà cứ xông pha sương tuyết thì mạng mạch Phật giáo sẽ thế nào ?’

Thượng hoàng đáp : ‘Thời ta đã đến, vì thế ta muốn làm kế lâu dài mà thôi’.

Ngày mồng 5 tháng mười, gia đồng của Công chúa Thiên Thụy lên núi tâu : ‘ Công chúa Thiên Thụy mệt nặng, xin gặp Điều Ngự để chết’. Vua nghe xong, trầm ngâm nói: ‘Cũng là thời tiết thôi’.

Rồi chống gậy xuống núi, chỉ có một người đi theo với ngài… Ngày 15 tháng mười, sau khi dặn dò xong xuôi, ngài lại quay về núi. Ngủ đêm ở chùa Báo Ân của Siêu Loại.

Tờ mờ sáng ngài đi đến chùa thôn Cổ Châu và tự tay đề lên vách bài kệ:

Số đời một hơi lặng
Tình trần hai biển trăng
Cung ma chi sá kể
Nước Phật xuân không cùng
(Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thắng xuân)”

Đây là bài thơ cuối cùng của vua, vì sau đó ngày 18 ngài lên núi Ngọa Vân, đến ngày 1 tháng 11 thì an nhiên ra đi.

Điều trước tiên chúng ta ghi nhận là không có một vị vua nào, không có một thiền sư nào của Việt Nam mà những ngày cuối cùng, những giờ phút cuối cùng được sử sách ghi lại một cách chi tiết như ông. Có phải đời ông gắn bó quá nhiều với lịch sử nên lịch sử cũng công bằng mà không sơ sài giản lược với ông ?

Bài thơ cuối cùng. Đó là những lời nói cuối cùng ở đỉnh cao nhất của một cuộc đời của mình, đang sắp sửa nhảy vào vực thẳm ngăn cách đời này với đời khác, hay vực thẳm ngăn cách đời này với cái Vô Hạn. Thế nên, ít ra, nó phải nói lên tâm thức mình khi ở đỉnh cao nhất của đời mình. Huống gì, việc cố tình viết lên vách chùa, đây là một gửi gắm, một thông điệp cho những đời sau.

Ở đây chỉ là một cố gắng nghiên cứu, học hỏi, bắt chước, để sống là theo ngài. Để làm được việc đó, chúng ta cố gắng tìm ra những gì là thực chất, là nội dung và động cơ của đời ngài. Có lẽ đó là cái ngài muốn để lại cho đời sau, chứ không phải lịch sử của cuộc đời ngài và thời đại ngài, dù chúng có vinh quang đến mấy, vì lịch sử thì không thể nào được lập lại.

Thế số nhất tức mặc. Số đời là một hơi thở tịch lặng. Một cuộc đời với nhiều biến cố, vừa là một nhà vua, một nhà chiến lược, một nhà chính trị, một nhà quân sự ngoại giao, lại có trách nhiệm như một quốc sư, việc gì của ông cũng để lại dấu ấn lớn trong lịch sử, thế mà cuộc đời ấy với ông chỉ là một hơi thở. Hơn nữa, một hơi thở im lặng, một hơi thở tịch diệt. Một hơi thở của thiền định, của chánh định.

Một cái tâm với nhiều hoạt động như vậy mà vẫn tịch diệt. Với nhiều cái sanh ra như vậy mà vẫn vô sanh. Sống với nhiều sự việc như vậy mà vẫn là vô sự. Tâm vô sự bởi vì tâm sanh tử đã “nhàn”, đã “mõi”, đã “lão”, chỉ còn tánh Không ngự trị, chỉ còn một chánh định của tánh Không:

Ai buộc mà đi cầu giải thoát
Chẳng phàm đâu phải kiếm thần tiên
Vượn nhàn, ngựa mỏi, người cũng lão
Y cũ am mây một sập thiền
(Sơn phòng mạn hướng)

Có thể nào nhiều việc, rất nhiều việc mà nơi mỗi công việc đều là một giải thoát? Do đó là người vô sự. Điều này Kinh Kim Cươngtrong hệ thống Bát Nhã, một kinh chính yếu của truyền thống Phật giáo Việt Nam đã chỉ ra.Thiền tông cũng chỉ ra. Ông là một thiền sư, lại là người mở đầu một dòng Thiền, ông hẳn phải thân chứng cái tâm Không vô sự đó, cái tâm kim cương không ô nhiễm đó.

Một cái tâm đã đạt đến cái bản tánh của nó là tánh Không thì ‘Phướn cũng chẳng động, gió cũng chẳng động”, như lời của Lục Tổ Huệ Năng nói trong phẩm Tựa của Pháp Bảo Đàn Kinh.

Còn đây là lời của ông về những việc làm của mình:

Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi
Quách nhiên bất thức, tai ngu nghe ắt còn vang

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, hội thứ 9 ).

Bài kệ trong phần chú thích của Cư Trần Lạc Đạo Phú có thể tóm tắt “tâm địa”của ông, “một hơi thở lặng” của ông, “một sập thiền”của ông:

Tất cả muôn pháp
Đều từ tâm sanh
Tâm không chỗ sanh
Pháp không chỗ trụ.
Nếu đạt tâm địa
Ứng dụng vô ngại
Không gặp thượng căn
Thận trọng chớ nói.

Chính vì “đạt tâm địa, tâm không chỗ sanh.Pháp không chỗ trụ” mà cuộc đời ông chỉ là sự “ứng dụng vô ngại” của tâm ấy. Cuộc đời ông là sự khai triển của tự do vô ngại của tánh Không vào trong thời cuộc ông đang sống. Sự bất biến tùy duyên ấy là một hơi thở tịch lặng, một hơi thở tịch lặng của tánh Không.

Thời tình lưỡng hải ngân.Tình trần hai biển trăng. Lưỡng hải ngân, theo chú thích trong Thơ Văn Lý Trần của Viện Văn Học, 1989, là hai con mắt. Các dịch giả khác đều dịch với ý là hai con mắt. Ở đây dịch”hai biển ngân” là “hai biển trăng”.

Thế và thời điêu để chỉ đời, trần gian.Nhưng thế ám chỉ không gian nhiều hơn.Thời thì chỉ thời gian nhiều hơn.

Tình trần hai biển trăng.Cuộc đời, thế thời lên xuống trôi qua. Với biết bao biến cố, nhưng tất cả được nhìn bằng đôi mắt đầy ánh sáng, hai biển trăng.

Đôi mắt đầy ánh sáng là đôi mắt của “tính sáng”. “Tính sáng” được nói đến trong 3 hội đầu trong Cư Trần Lạc Đạo Phú gồm 10 hội. Bảy hội sau không còn dùng hai chữ tính sáng, nhưng dù dùng những chữ khác thì vẫn cùng một nghĩa: huệ nhật, tính thức, tính sáng soi, vô tâm, lòng trong sạch, lòng minh kính, lửa giác ngộ, thánh trí, Bồ đề thêm sáng…..Nhờ đôi mắt của tính sáng, đôi mắt là tính sáng ấy mà tình trần trở nên thanh tịnh, trở nên giải thoát khỏi nhân duyên sanh diệt:

Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên.
Dồi cho vằng vặc tính gương, nào có nhuốm căn trần huyên náo.
(Hội 6)

Nhờ đôi mắt tính sáng này mà thấy, mà quán thấy lời dạy trong bài kệ chấm dứtKinh Kim Cương:”Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt, ảnh; như sương cũng như chớp; hãy nên quán như thế”.

Ông ở trong tính sáng ấy nên ông thấy:

Cốc hay thân huyễn
Chẳng khác phù vân
Vạn sự giai không
Tựa dường bọt biển.
(Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca).

Tính sáng này là ánh sáng căn bản, ánh sáng bổn nguyên, là Tịnh Quang (Clear Light, Skt:abhasvara, TT: od- gsal) của Phật giáo Ấn Độ - Tây Tạng như hiện nay chúng ta thấy. Quả thật, Phật giáo dù ở đâu, dù có thể chẵng hề tiếp xúc liên lạc với nhau, dù có những phương tiện tu hành khác nhau vẫn luôn luôn đi đến một thực tại tối hậu, đi chung một hướng, một đại đạo, một Phật đạo vậy.

Chính nhờ đôi mắt hai biển trăng này, đôi mắt của tính sáng này mà nhìn “Thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai” (Kinh Kim Cương).Chính đôi mắt hai biển trăng này mà thấy Nước Phật: “ Nước Phật xuân không cùng”.

Ma cung hồn quản thậm.Phật quốc bất thắng xuân.Cung ma chi sá kể, cung ma chẳng ‘nhằm nhò’ gì, cung ma không còn nữa. Còn nước Phật thì xuân không cùng, xuân khôn xiết, xuân ‘hết sảy’ .Sanh tử (cung ma) không còn bóng dáng, tất cả chỉ một vị Niết Bàn.

Đây là kết quả tất nhiên của hai câu đầu. Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sống có ý nghĩa là không tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng. Đời sống tự nó là giải thoát, là Niết Bàn.

Chúng ta cần lưu ý đều này nữa.“Nước Phật”ở đây không chỉ có nghĩa là Niết Bàn thanh tịnh tịch diệt mà ông tự chứng, mà đó còn là nước Đại Việt mà ông trực tiếp lãnh đạo và trang nghiêm. Nước Phật đây là một nước Đại Việt được Phật hóa từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong như hai câu thơ khi ông chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai, trở lại Thăng Long:

Xã tắc hai lần phiền ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

Chúng ta thấy câu đầu “Số đời một hơi thở lặng” nói đến sự tịch diệt của tâm và do đó của tất cả các pháp. Đấy là nghĩa Tịch của tâm.Câu hai nói đến”tính sáng soi” của tâm và của tất cả các pháp.Đấy là nghĩa Chiếu của tâm.Tâm gồm hai phương diện Tịch và Chiếu.Tâm là Tịch Chiếu.

Tâm gồm hai phương diện Tịch và Chiếu, dùng những chữ tương đương là Chỉ và Quán, hay Định và Huệ (xem phẩmĐịnh Huệtrong Pháp Bảo Đàn Kinh). Thiền là sự việc Tịch Chiếu đồng thời, Chỉ Quán đồng thời,Định Huệ đồng thời. Và vì Tịch Chiếu đồng thời, Chỉ Quán đồng thời, nên Thiền tương ưng với bản tâm vốn Tịch Chiếu viên mãn, vốn Chỉ Quán viên mãn, vốn Định Huệ viên mãn. Quả của Thiền là cái tâm Tịch Chiếu viên mãn này:

Cái Tịch Chiếu vốn tự nhiên của bản tâm cũng tức là cái Chân Không Diệu Hữu của Đại thừa.

Tịch là phương diện bên trong.Chiếu là phương diện bên ngoài. Kết hợp và nâng cấp cả hai cho đến viên mãn hợp nhất là con đường Đại thừa:

Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm”
(Hội thứ 6)
“Dựng cầu đò, dồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.
Săn hỹ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc”
(Hội thứ 8)

Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập:tích tập trí huệ (nội) và tich tập phước đức (ngoại). Cũng chính nhờ tích tập trí huệ mà đắc Pháp thân; và tích tập phước đức mà có Báo thân và Hóa thân. Con đường Bồ tát là con đường đầy đủ cả “nội và ngoại”, đầy đủ huệ và phước:

Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc (biết)”

(Hội thứ 8)

Chúng ta thấy Trần Nhân Tông là người “Phúc tuệ gồm no”. Con đường Điều Ngự Giác Hoàng đã đi là con đường Bồ tát hạnh. Ngài đã phụng sự không mệt mỏi cho xã hội, cho quốc gia dân tộc và cho chúng sanh cho đến hơi thở cuối cùng.

Sự phụng sự không mệt mỏi đó y cứ trên nền tảng trí huệ, trên nền tảng Thiền:

Biết vậy!
Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác
Gìn tính sáng, tính mới hầu an,
Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác.
Dứt trừ nhân ngã, thì ra tướng thực kim cương,
Dừng hết tham sân, mới lảu lòng màu viên giác.
(Hội 2)
Vậy mới hay
Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa
Nhân quên gốc nên ta tìm Bụt
Nếu biết rồi chỉn Bụt là ta.
(Hội 5)

Chúng ta cần học tập, sống theo Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Chúng ta cần kế thừa Thiền của Trần Nhân Tông.Thiền ấy đặt hai chân lên cuộc đời cụ thể này bằng Bồ tát hạnh. Bởi vì có đi trên con đường Thiền với Bồ tát hạnh, chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình và đóng góp phần mình làm cho xã hội sống được một đời sống có ý nghĩa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2013(Xem: 14488)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6688)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5337)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4855)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5247)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6085)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5912)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9194)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 4891)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 5179)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567