Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kế Lâu Dài - Minh Triết Trần Nhân Tông

09/08/201102:20(Xem: 4238)
Kế Lâu Dài - Minh Triết Trần Nhân Tông


KẾ LÂU DÀI - MINH TRIẾT TRẦN NHÂN TÔNG
Thích Thanh Thắng

Gần đến kỷ niệm 700 năm ngày mất của vua Trần Nhân Tông, chúng ta vẫn phải đặt những câu hỏi về tuổi tác, về trách nhiệm, về kế lâu dài, về sự tự do và tự trọng của các cá nhân trong xã hội…

Trần Nhân Tông (1258-1308) tên húy là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11 ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng.

Hai cung (Thượng hoàng Thái Tông và vua Thánh Tông) đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử. Vua Nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần…

Nhận được sự giáo dục toàn vẹn để tiếp nối bậc quân vương, Trần Nhân Tông lên ngôi năm 21 tuổi, ở ngôi 14 năm (1279-1293). Nhằm nâng cấp, hoàn thiện nhân cách và trách nhiệm của người đi sau, ngài đã ý thức noi gương người trước nhường ngôi ở tuổi 35, về làm thái thượng hoàng 5 năm, thực sự trao lại toàn bộ quyền bính năm 41 tuổi (1298), sau đó xuất gia tu hạnh đầu đà và viên tịch ở am Ngọa Vân núi Yên Tử năm 1308, thọ 51 tuổi.

Nhưng chỉ với khoảng 10 năm tu hành, ngài đã đi chu du khắp nơi thôn xóm khuyến hóa dân chúng giữ gìn năm giới hạnh, mười điều lành, sáng lập dòng thiền Trúc Lâm…

Bảo Sát từng bạch hỏi ngài: “Tôn Đức tuổi đã cao mà xông pha sương tuyết như vậy, lỡ ra có chuyện gì thì mạng mạch Phật pháp sẽ như thế nào?” Ngài đáp: “Thời giờ của ta đã đến, ta muốn tạo cái kế lâu dài vậy” (Thánh đăng lục).

Những thông tin vắn tắt trên đã gợi cho chúng ta đôi điều đáng suy ngẫm.

Thời buổi đầu, nhà Trần đã rất ý thức về việc chọn người nối ngôi nên họ đã sớm lập ra chế độ “Thái thượng hoàng”. Nhường ngôi sớm để dẫn dắt các vị vua trẻ vào con đường cai trị, song họ vẫn duy trì quyền lực đủ sức chi phối trong một thời gian ngắn để những vị vua này có thể chín chắn, trưởng thành hơn trong đường lối, quyết sách.

Đến khi vua trẻ có thể làm cho họ hoàn toàn yên tâm thì họ sẽ nhường lại toàn bộ quyền lực để đi sâu vào khám phá đời sống tâm linh, thực nghiệm triết lý Phật giáo.

Độ chín về tuổi tác khi được chọn để tham dự vào bộ máy thế quyền mà nhà Trần áp dụng đã thực sự kích thích nhiệt huyết sáng tạo, từ đó đẩy trách nhiệm của những người trẻ tuổi lên rất cao. Chính trong những khuyến khích ấy, sự tự do và tự trọng đã giao hòa trong nhân cách, làm cho người trẻ có thể yên tâm đương đầu đảm nhiệm những công việc mang trọng trách ở tầm quốc gia.

Đến lúc thích hợp, các vị thái thượng hoàng có thể xả bỏ quyền lực như bỏ đôi giày rách để tham gia vào con đường thực nghiệm tâm linh, vì vậy họ thực sự đã trở thành những triết nhân xuất trần. Bởi khi những danh vọng thế gian đã không còn khả năng chi phối, là lúc họ có thể chuyên tâm vào nghiên cứu Phật học và khám phá đời sống nội tâm.

Nhờ chuyên tâm mà họ có được những khả năng siêu thoát, thực tu, thực chứng và thường để lại những mẫu hình nhân cách rất đặc trưng. Đó là hình ảnh của những thiền sư dấn thân nhập thế, hòa ánh sáng cùng cát bụi, có thể “mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm”, “dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng”, xuất nhập tư tại, cư trần lạc đạo, “chẳng hỏi đại ẩn tiểu ẩn, không chia tại gia xuất gia” (Trần Thái Tông)…

Sự tự trọng của vai trò, trách nhiệm, sự tự do trong tâm thức đã nuôi dưỡng những khả năng “xuất- nhập” của họ rất lớn. Câu nói Trần Nhân Tông trả lời Bảo Sát cho ta thấy rất rõ tâm nguyện về “kế lâu dài” của ông cho cả hai con đường “xuất- nhập”, “đạo-tục”.

Tự tri được “thời giờ của ta đã đến” (ở tuổi 51) càng làm cho Trần Nhân Tông ý thức nhiều hơn về “kế lâu dài” ấy. Có nghĩa rằng khi làm bất cứ một việc gì không thể không tính toán kỹ lưỡng trước sau cho trọn vẹn vì thời gian không cho phép mình được sai lầm nữa.

Nếu không thể ngày đêm quán sát “thời giờ của ta đã đến” trong từng hơi thở thì làm sao có thể bỏ những điều khó bỏ, có thể buông ngai vàng như bỏ đôi giày rách, cũng như lựa chọn, chuẩn bị đầy đủ những điều kiện cần thiết để người kế vị có thể vững tin nhập chính…

Hóa ra việc lớn lại thường được ý thức rất nhiều từ những việc mà người đời cho là nhỏ như quán sát sự vô thường trong từng hơi thở ấy. Có thể nói, nhiều vị vua Phật tử hơn người ở chỗ đã biết xây dựng xã hội từ những việc nhỏ nên không tham quyền cố vị, không ảo tưởng với những điều lớn lao, mà luôn chăm chút đến những thế hệ kế cận, lợi ích của nhân dân.

Nhân cách thiền sư đã bổ túc, giao hòa nhân cách thái thượng hoàng và ngược lại, chính vì thế khi Trần Nhân Tông dù ở ngôi trị quốc hay ngôi dẫn đạo ông cũng khiêm cung tôn Tuệ Trung Thượng sĩ làm thầy. Điều này đã làm cho người dưới nể trọng, kính phục vì họ không cảm thấy việc làm của họ có một bàn tay sắt can thiệp, vì Trần Nhân Tông dẫn dắt mà không làm cho họ nhàm chán, chỉ ra cái sai mà không làm họ oán hận, xét xử mà không làm cho họ oan ức, biết lấy tâm mà truyền tâm...

Nếu để người dưới luôn cảm thấy bất an trước sức nặng đè xuống, họ sẽ mất tự do, tự trọng, sáng tạo, và họ sẽ mệt mỏi bằng mọi cách muốn thoát ra khỏi gánh nặng ấy. Nếu người quản trị mà để mọi người rơi vào cái thế “cùng tranh” ấy thì đó chính là mối nguy không lường trước được hậu quả vậy.

Trần Nhân Tông hiểu rõ việc “đứng sau người thì không có tranh chấp” nên đúng như Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua Nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước”. “Từ cố năng dũng” (Từ là người dũng mãnh nhất trên đời).

Phải có lòng từ lớn mới có thể cố kết lòng dân, tập hợp sâu rộng các thành phần dân tộc, không kéo thiên hạ vào cái thế “loạn tranh”, mới không làm cho những nghi ngờ, bạo động xuất hiện. Người quản trị trong những tình huống lo cho cái “kế lâu dài” phải biết hạ mình cầu người, đặt mình ra sau, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ…

Tự trọng là nói lời giữ lời, “tín ngôn bất mỹ”. Nếu lời nói chỉ hoa văn trang sức, làm đẹp lòng nhau một cách giả tạo, cầu toàn vụ lợi, tiền hậu bất nhất thì không chứa nổi sự thật. Chính vì vậy, Trần Nhân Tông đã thực hiện tôn chỉ của thánh nhân “công thành thân thoái”. Đó là khả năng tin tưởng, “tự tri”, biết sở trường, sở đoản của mình mà dung hội được nhiều hạng người khác nhau trong việc phục vụ cho lợi ích chung.

Đó chính là “Phù dung bất yếm, thị dĩ bất yếm” (Vì ta không chê, nên ta không chán). Vì thế có thể tin tưởng nơi người, và vì thế mới có “kế lâu dài” vậy. Nếu người quản trị suốt ngày chê bai, không tin tưởng người khác thì ai có thể quy tụ, đồng lòng chung sức vì công cuộc chung?

Cho nên người xưa mới nói “cố thử bỉ thủ khử” (Nên bỏ đó mà giữ đây). “Bỏ đó” là bỏ đi những cái thành kiến, tự kiến, tự quý, “giữ đây” là giữ cái “tự tri” của chính mình, chứ không phải bỏ người, phụ người. Tranh đấu, gây hấn, chia rẽ là việc làm của người không biết giữ “kế lâu dài”, đem mình lên trên để cầu thắng, đưa mình đến trước để cầu tiến, đó cũng là cái “dũng”, nhưng đó là cái “dũng” của kẻ dùng cương cường mà đánh cương cường, cái “dũng” ấy kéo thiên hạ vào chỗ loạn tranh, cùng binh độc vũ vậy.

Thay người, phụ người, tiếm quyền, đoạt lợi thì có khác gì thay người thợ đẽo để mình đẽo, làm những việc vốn không phải của mình, ôm đồm hết việc của người, tránh sao cho khỏi những lúc đứt tay. “Thị vi đại đại tượng trác. Phù đại đại tượng trác giả. Hi hữu bất thương kỳ thủ hĩ” (Có khác nào thế tay thợ đẽo. Thế tay thợ đẽo, ít thấy chẳng bị đứt tay). Trần Nhân Tông nhường ngôi sớm chính là không muốn trở thành người “thế tay thợ đẽo”.

Lão Tử có nói: “Làm việc khó bắt đầu nơi chỗ dễ. Làm việc lớn bắt đầu nơi chỗ nhỏ” (Đồ nan ư kỳ dị, vi đại ư kỳ tế). Chính vì săn sóc, chăm lo cho những điều nhỏ mà làm được những điều lớn bất ngờ. Trần Nhân Tông tham chiếu tu hành, nghiên cứu sâu Phật học, nhưng ngài không chủ đích khuyến hóa đời bằng những lý lẽ cao siêu mà bằng những bài học bắt đầu từ năm giới hạnh và mười điều lành. Giọt nước chảy lâu cũng làm thủng cối đá. Lỗ mọt nhỏ cũng có thể làm chìm thuyền. Điều thiện cũng như điều ác cũng đều nên được ý thức từ những điều rất nhỏ.

Nếu cái nhỏ gì cũng xem thường, để cho qua loa thì sẽ có ngày trở thành những cái khó lớn. Biết khó mà không xem thường thì có thể đối mặt với mọi hoàn cảnh mà không rơi vào sự lúng túng, dao động. Biết nhỏ thì có thể lấy mềm buộc chặt, lấy ít ngăn chế nhiều. Đó là thế thuật trị nước của nhiều vị vua Phật tử Việt Nam.

“Thị dĩ thánh nhân, vi phúc bất vi mục” (Thánh nhân vì bụng mà không vì mắt). Những cảnh sắc phát triển bề nổi ưa dối đời lừa người, mắt thường thường nhìn vào hiện tượng mà đưa ra những phán đoán sai lầm, chính vì vậy người xưa xem những cái làm cho êm tai, đẹp mắt là những cái xa hoa, phù phiếm, là đầu mối của những bất hòa, loạn lạc.

Người ta dù có đi đâu xa vạn dặm thì cũng khởi đầu từ một bước chân, quên cái bước chân nhỏ ban đầu ấy thì khó có thể tiếp tục đi xa mãi được. “Kế lâu dài” là biết khó biết dễ, biết vì “bụng” mà không vì “mắt”. “Vi giả bại chi, chấp giả thất chi”, người quản trị đứng đầu một quốc gia, tổ chức mà lấy ý riêng của mình, thành kiến của mình mà đối đãi với thiên hạ, người dưới thì càng làm càng hư, càng giữ càng mất.

Quốc sư Phù Vân từng khuyên vua Trần Thái Tông: “Phàm đã là bậc nhân quân tất phải lấy ý của thiên hạ làm ý của mình, lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình”.

Vì sao khi người ta làm việc gần đi đến chỗ thành công thì lại gặp thất bại? Vì lúc gặp nhiều trắc trở khó khăn thì cố gắng, thận trọng, đoàn kết, lắng nghe từng việc nhỏ, phân tích từng điều khó, nhưng lúc thành công được một phần thì tự mãn, chủ quan, lơ đễnh, không lắng nghe nhau nên đã khiến cho việc hỏng một cách bất ngờ. Nếu có thể “thận chung như thỉ” (thận trọng lúc cuối cùng cũng như lúc ban đầu) thì sao có thể gây ra sự rối ren và hỏng việc được.

Trần Nhân Tông ở ngôi 14 năm, xuất gia 10 năm, đạt được sự giác ngộ, tự tri nhưng luôn đau đáu đến “kế lâu dài”. Phải chăng xã hội ấy xuất hiện nhiều những nhân cách lớn vượt thời đại vì họ luôn ý thức “thời giờ của ta đã đến”, không ham sống sợ chết, tham quyền cố vị, biết nâng đỡ phát hiện người đi sau?

Gần đến kỷ niệm 700 năm ngày mất của vua Trần Nhân Tông, chúng ta vẫn phải đặt những câu hỏi về tuổi tác, về trách nhiệm, về kế lâu dài, về sự tự do và tự trọng của các cá nhân trong xã hội.

“Thương thay Bành Tổ sống tám trăm năm. Xót vậy Nhan Hồi tuổi hơn ba chục”. Sống nhiều hay sống ít mang đến những ý nghĩa gì? Trần Nhân Tông xả báo thân ở tuổi 51, tuổi của thế hệ trung niên trong xã hội hiện đại bây giờ, nhưng sự nghiệp mà ngài để lại thì vô cùng to lớn.

Chúng ta vui mừng vì tuổi thọ trung bình của người dân ngày nay càng tăng, nhưng có còn không những bậc “trường sinh cửu thị” (sống lâu mà không già), người già mà tâm không già, biết chung sức đặt “kế lâu dài” cho hậu thế?

Thích Thanh Thắng
(Văn Hóa Phật Giáo số 68)

Tham khảo:

- Đại Việt sử ký toàn thư
- Thánh đăng lục
- Đạo đức kinh
- Thơ văn Lý - Trần


11-30-2008 09:23:13

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7196)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4226)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4861)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5633)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6221)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3850)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5297)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5346)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 13006)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11583)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567