Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kế Lâu Dài - Minh Triết Trần Nhân Tông

09/08/201102:20(Xem: 5356)
Kế Lâu Dài - Minh Triết Trần Nhân Tông


KẾ LÂU DÀI - MINH TRIẾT TRẦN NHÂN TÔNG
Thích Thanh Thắng

Gần đến kỷ niệm 700 năm ngày mất của vua Trần Nhân Tông, chúng ta vẫn phải đặt những câu hỏi về tuổi tác, về trách nhiệm, về kế lâu dài, về sự tự do và tự trọng của các cá nhân trong xã hội…

Trần Nhân Tông (1258-1308) tên húy là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11 ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng.

Hai cung (Thượng hoàng Thái Tông và vua Thánh Tông) đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử. Vua Nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần…

Nhận được sự giáo dục toàn vẹn để tiếp nối bậc quân vương, Trần Nhân Tông lên ngôi năm 21 tuổi, ở ngôi 14 năm (1279-1293). Nhằm nâng cấp, hoàn thiện nhân cách và trách nhiệm của người đi sau, ngài đã ý thức noi gương người trước nhường ngôi ở tuổi 35, về làm thái thượng hoàng 5 năm, thực sự trao lại toàn bộ quyền bính năm 41 tuổi (1298), sau đó xuất gia tu hạnh đầu đà và viên tịch ở am Ngọa Vân núi Yên Tử năm 1308, thọ 51 tuổi.

Nhưng chỉ với khoảng 10 năm tu hành, ngài đã đi chu du khắp nơi thôn xóm khuyến hóa dân chúng giữ gìn năm giới hạnh, mười điều lành, sáng lập dòng thiền Trúc Lâm…

Bảo Sát từng bạch hỏi ngài: “Tôn Đức tuổi đã cao mà xông pha sương tuyết như vậy, lỡ ra có chuyện gì thì mạng mạch Phật pháp sẽ như thế nào?” Ngài đáp: “Thời giờ của ta đã đến, ta muốn tạo cái kế lâu dài vậy” (Thánh đăng lục).

Những thông tin vắn tắt trên đã gợi cho chúng ta đôi điều đáng suy ngẫm.

Thời buổi đầu, nhà Trần đã rất ý thức về việc chọn người nối ngôi nên họ đã sớm lập ra chế độ “Thái thượng hoàng”. Nhường ngôi sớm để dẫn dắt các vị vua trẻ vào con đường cai trị, song họ vẫn duy trì quyền lực đủ sức chi phối trong một thời gian ngắn để những vị vua này có thể chín chắn, trưởng thành hơn trong đường lối, quyết sách.

Đến khi vua trẻ có thể làm cho họ hoàn toàn yên tâm thì họ sẽ nhường lại toàn bộ quyền lực để đi sâu vào khám phá đời sống tâm linh, thực nghiệm triết lý Phật giáo.

Độ chín về tuổi tác khi được chọn để tham dự vào bộ máy thế quyền mà nhà Trần áp dụng đã thực sự kích thích nhiệt huyết sáng tạo, từ đó đẩy trách nhiệm của những người trẻ tuổi lên rất cao. Chính trong những khuyến khích ấy, sự tự do và tự trọng đã giao hòa trong nhân cách, làm cho người trẻ có thể yên tâm đương đầu đảm nhiệm những công việc mang trọng trách ở tầm quốc gia.

Đến lúc thích hợp, các vị thái thượng hoàng có thể xả bỏ quyền lực như bỏ đôi giày rách để tham gia vào con đường thực nghiệm tâm linh, vì vậy họ thực sự đã trở thành những triết nhân xuất trần. Bởi khi những danh vọng thế gian đã không còn khả năng chi phối, là lúc họ có thể chuyên tâm vào nghiên cứu Phật học và khám phá đời sống nội tâm.

Nhờ chuyên tâm mà họ có được những khả năng siêu thoát, thực tu, thực chứng và thường để lại những mẫu hình nhân cách rất đặc trưng. Đó là hình ảnh của những thiền sư dấn thân nhập thế, hòa ánh sáng cùng cát bụi, có thể “mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm”, “dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng”, xuất nhập tư tại, cư trần lạc đạo, “chẳng hỏi đại ẩn tiểu ẩn, không chia tại gia xuất gia” (Trần Thái Tông)…

Sự tự trọng của vai trò, trách nhiệm, sự tự do trong tâm thức đã nuôi dưỡng những khả năng “xuất- nhập” của họ rất lớn. Câu nói Trần Nhân Tông trả lời Bảo Sát cho ta thấy rất rõ tâm nguyện về “kế lâu dài” của ông cho cả hai con đường “xuất- nhập”, “đạo-tục”.

Tự tri được “thời giờ của ta đã đến” (ở tuổi 51) càng làm cho Trần Nhân Tông ý thức nhiều hơn về “kế lâu dài” ấy. Có nghĩa rằng khi làm bất cứ một việc gì không thể không tính toán kỹ lưỡng trước sau cho trọn vẹn vì thời gian không cho phép mình được sai lầm nữa.

Nếu không thể ngày đêm quán sát “thời giờ của ta đã đến” trong từng hơi thở thì làm sao có thể bỏ những điều khó bỏ, có thể buông ngai vàng như bỏ đôi giày rách, cũng như lựa chọn, chuẩn bị đầy đủ những điều kiện cần thiết để người kế vị có thể vững tin nhập chính…

Hóa ra việc lớn lại thường được ý thức rất nhiều từ những việc mà người đời cho là nhỏ như quán sát sự vô thường trong từng hơi thở ấy. Có thể nói, nhiều vị vua Phật tử hơn người ở chỗ đã biết xây dựng xã hội từ những việc nhỏ nên không tham quyền cố vị, không ảo tưởng với những điều lớn lao, mà luôn chăm chút đến những thế hệ kế cận, lợi ích của nhân dân.

Nhân cách thiền sư đã bổ túc, giao hòa nhân cách thái thượng hoàng và ngược lại, chính vì thế khi Trần Nhân Tông dù ở ngôi trị quốc hay ngôi dẫn đạo ông cũng khiêm cung tôn Tuệ Trung Thượng sĩ làm thầy. Điều này đã làm cho người dưới nể trọng, kính phục vì họ không cảm thấy việc làm của họ có một bàn tay sắt can thiệp, vì Trần Nhân Tông dẫn dắt mà không làm cho họ nhàm chán, chỉ ra cái sai mà không làm họ oán hận, xét xử mà không làm cho họ oan ức, biết lấy tâm mà truyền tâm...

Nếu để người dưới luôn cảm thấy bất an trước sức nặng đè xuống, họ sẽ mất tự do, tự trọng, sáng tạo, và họ sẽ mệt mỏi bằng mọi cách muốn thoát ra khỏi gánh nặng ấy. Nếu người quản trị mà để mọi người rơi vào cái thế “cùng tranh” ấy thì đó chính là mối nguy không lường trước được hậu quả vậy.

Trần Nhân Tông hiểu rõ việc “đứng sau người thì không có tranh chấp” nên đúng như Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua Nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước”. “Từ cố năng dũng” (Từ là người dũng mãnh nhất trên đời).

Phải có lòng từ lớn mới có thể cố kết lòng dân, tập hợp sâu rộng các thành phần dân tộc, không kéo thiên hạ vào cái thế “loạn tranh”, mới không làm cho những nghi ngờ, bạo động xuất hiện. Người quản trị trong những tình huống lo cho cái “kế lâu dài” phải biết hạ mình cầu người, đặt mình ra sau, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ…

Tự trọng là nói lời giữ lời, “tín ngôn bất mỹ”. Nếu lời nói chỉ hoa văn trang sức, làm đẹp lòng nhau một cách giả tạo, cầu toàn vụ lợi, tiền hậu bất nhất thì không chứa nổi sự thật. Chính vì vậy, Trần Nhân Tông đã thực hiện tôn chỉ của thánh nhân “công thành thân thoái”. Đó là khả năng tin tưởng, “tự tri”, biết sở trường, sở đoản của mình mà dung hội được nhiều hạng người khác nhau trong việc phục vụ cho lợi ích chung.

Đó chính là “Phù dung bất yếm, thị dĩ bất yếm” (Vì ta không chê, nên ta không chán). Vì thế có thể tin tưởng nơi người, và vì thế mới có “kế lâu dài” vậy. Nếu người quản trị suốt ngày chê bai, không tin tưởng người khác thì ai có thể quy tụ, đồng lòng chung sức vì công cuộc chung?

Cho nên người xưa mới nói “cố thử bỉ thủ khử” (Nên bỏ đó mà giữ đây). “Bỏ đó” là bỏ đi những cái thành kiến, tự kiến, tự quý, “giữ đây” là giữ cái “tự tri” của chính mình, chứ không phải bỏ người, phụ người. Tranh đấu, gây hấn, chia rẽ là việc làm của người không biết giữ “kế lâu dài”, đem mình lên trên để cầu thắng, đưa mình đến trước để cầu tiến, đó cũng là cái “dũng”, nhưng đó là cái “dũng” của kẻ dùng cương cường mà đánh cương cường, cái “dũng” ấy kéo thiên hạ vào chỗ loạn tranh, cùng binh độc vũ vậy.

Thay người, phụ người, tiếm quyền, đoạt lợi thì có khác gì thay người thợ đẽo để mình đẽo, làm những việc vốn không phải của mình, ôm đồm hết việc của người, tránh sao cho khỏi những lúc đứt tay. “Thị vi đại đại tượng trác. Phù đại đại tượng trác giả. Hi hữu bất thương kỳ thủ hĩ” (Có khác nào thế tay thợ đẽo. Thế tay thợ đẽo, ít thấy chẳng bị đứt tay). Trần Nhân Tông nhường ngôi sớm chính là không muốn trở thành người “thế tay thợ đẽo”.

Lão Tử có nói: “Làm việc khó bắt đầu nơi chỗ dễ. Làm việc lớn bắt đầu nơi chỗ nhỏ” (Đồ nan ư kỳ dị, vi đại ư kỳ tế). Chính vì săn sóc, chăm lo cho những điều nhỏ mà làm được những điều lớn bất ngờ. Trần Nhân Tông tham chiếu tu hành, nghiên cứu sâu Phật học, nhưng ngài không chủ đích khuyến hóa đời bằng những lý lẽ cao siêu mà bằng những bài học bắt đầu từ năm giới hạnh và mười điều lành. Giọt nước chảy lâu cũng làm thủng cối đá. Lỗ mọt nhỏ cũng có thể làm chìm thuyền. Điều thiện cũng như điều ác cũng đều nên được ý thức từ những điều rất nhỏ.

Nếu cái nhỏ gì cũng xem thường, để cho qua loa thì sẽ có ngày trở thành những cái khó lớn. Biết khó mà không xem thường thì có thể đối mặt với mọi hoàn cảnh mà không rơi vào sự lúng túng, dao động. Biết nhỏ thì có thể lấy mềm buộc chặt, lấy ít ngăn chế nhiều. Đó là thế thuật trị nước của nhiều vị vua Phật tử Việt Nam.

“Thị dĩ thánh nhân, vi phúc bất vi mục” (Thánh nhân vì bụng mà không vì mắt). Những cảnh sắc phát triển bề nổi ưa dối đời lừa người, mắt thường thường nhìn vào hiện tượng mà đưa ra những phán đoán sai lầm, chính vì vậy người xưa xem những cái làm cho êm tai, đẹp mắt là những cái xa hoa, phù phiếm, là đầu mối của những bất hòa, loạn lạc.

Người ta dù có đi đâu xa vạn dặm thì cũng khởi đầu từ một bước chân, quên cái bước chân nhỏ ban đầu ấy thì khó có thể tiếp tục đi xa mãi được. “Kế lâu dài” là biết khó biết dễ, biết vì “bụng” mà không vì “mắt”. “Vi giả bại chi, chấp giả thất chi”, người quản trị đứng đầu một quốc gia, tổ chức mà lấy ý riêng của mình, thành kiến của mình mà đối đãi với thiên hạ, người dưới thì càng làm càng hư, càng giữ càng mất.

Quốc sư Phù Vân từng khuyên vua Trần Thái Tông: “Phàm đã là bậc nhân quân tất phải lấy ý của thiên hạ làm ý của mình, lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình”.

Vì sao khi người ta làm việc gần đi đến chỗ thành công thì lại gặp thất bại? Vì lúc gặp nhiều trắc trở khó khăn thì cố gắng, thận trọng, đoàn kết, lắng nghe từng việc nhỏ, phân tích từng điều khó, nhưng lúc thành công được một phần thì tự mãn, chủ quan, lơ đễnh, không lắng nghe nhau nên đã khiến cho việc hỏng một cách bất ngờ. Nếu có thể “thận chung như thỉ” (thận trọng lúc cuối cùng cũng như lúc ban đầu) thì sao có thể gây ra sự rối ren và hỏng việc được.

Trần Nhân Tông ở ngôi 14 năm, xuất gia 10 năm, đạt được sự giác ngộ, tự tri nhưng luôn đau đáu đến “kế lâu dài”. Phải chăng xã hội ấy xuất hiện nhiều những nhân cách lớn vượt thời đại vì họ luôn ý thức “thời giờ của ta đã đến”, không ham sống sợ chết, tham quyền cố vị, biết nâng đỡ phát hiện người đi sau?

Gần đến kỷ niệm 700 năm ngày mất của vua Trần Nhân Tông, chúng ta vẫn phải đặt những câu hỏi về tuổi tác, về trách nhiệm, về kế lâu dài, về sự tự do và tự trọng của các cá nhân trong xã hội.

“Thương thay Bành Tổ sống tám trăm năm. Xót vậy Nhan Hồi tuổi hơn ba chục”. Sống nhiều hay sống ít mang đến những ý nghĩa gì? Trần Nhân Tông xả báo thân ở tuổi 51, tuổi của thế hệ trung niên trong xã hội hiện đại bây giờ, nhưng sự nghiệp mà ngài để lại thì vô cùng to lớn.

Chúng ta vui mừng vì tuổi thọ trung bình của người dân ngày nay càng tăng, nhưng có còn không những bậc “trường sinh cửu thị” (sống lâu mà không già), người già mà tâm không già, biết chung sức đặt “kế lâu dài” cho hậu thế?

Thích Thanh Thắng
(Văn Hóa Phật Giáo số 68)

Tham khảo:

- Đại Việt sử ký toàn thư
- Thánh đăng lục
- Đạo đức kinh
- Thơ văn Lý - Trần


11-30-2008 09:23:13

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 7288)
Hòa thượng họ Hồ, húy Đắc Kế, Pháp danh Nguyên Công, tự Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ bốn mươi bốn, sinh năm Đinh Sửu (1937) tại làng Thanh Lương, phủ Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay là xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Nhờ túc duyên tiền kiếp, nên mặc dù không ai khích lệ thúc đẩy, Ngài vẫn một mình cố công tìm đường hướng về với đạo lý giác ngộ. Khởi đầu, Ngài xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Minh Đạo tại chùa Long Quang, Phan Rí năm 13 tuổi. Sau đó, trên đường tầm sư học đạo, Ngài cầu học với Hòa thượng Trí Thắng chùa Thiên Hưng và Hòa Thượng Viện chủ chùa Trùng Khánh ở Phan Rang, Hòa Thượng Thiện Hòa ở chùa Ấn Quang, Sàigòn, và Hòa Thượng Trí Thủ ở Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Vào năm 1962, Ngài tốt nghiệp Cao Đẳng Phật giáo tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sàigòn. Song song với Phật học, Ngài cũng c
25/01/2021(Xem: 4097)
Nói đến cụ Họa, hầu như người người dân thôn Vạn An, xã Nghĩa Thương, quận Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Nếu sống cùng thời thì ai ai cũng biết cụ. Thật ra tên cụ là Võ đình Thụy, pháp danh Tâm Huệ sinh năm 1899 mất ngày 31 tháng 1 năm 1951 tại quê nhà. Cụ dáng người tầm thước. Sóng mủi cao cân xứng với khuôn mặt chữ điền. vầng trán cao rộng. Miệng hàm én. Đặc biệt hai mắt sáng quắt, biểu lộ đức tính ngay thẳng, lòng đầy quả cảm.
03/01/2021(Xem: 9112)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
20/12/2020(Xem: 3964)
Kính lạy giác linh Tổ sư: Chúng con đã từng nghe: Đồng An xưa, thác sanh thai thánh Dòng Lương Thị, quang huy ấu đồng. Tuyền Châu hun đúc ngọn từ phong. Phước Kiến ân triêm nguồn pháp vũ. Rồi từ đó: THẾ giới bao la, sáng ngời tinh tú ÂN sư cao cả, bừng trổi đàm hoa. Tướng hảo dung hòa Từ trí viên mãn. Nghiệp bút nghiên sáng lạng Nếp nho gia miên trường.
13/12/2020(Xem: 11903)
lễ Cúng Dường Đại Tăng trong ngày Sinh nhật Lần Thứ 94 của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan. Thời gian: 1giờ 30 chiều ngày 01 tháng 01 năm 2021 Địa điểm: Chùa Hồng Danh 1129 Bal Harbor Way. San Jose, CA 95122. USA
12/12/2020(Xem: 5612)
Tu Viện Quảng Đức/Trang nhà Quảng Đức vừa nhận tin viên tịch (từ HT Thích Minh Hiếu): Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Giác Phúc, Thành viên Hội đồng chứng minh GHPGVN Giáo phẩm chứng minh Hệ phái Khất sĩ Tăng trưởng Giáo đoàn IV Viện chủ Pháp viện Minh Đăng Quang, Thế danh: Lê Văn Xa Sinh năm: 15/04/1936 Xuất gia: 29/09/AL/1958 Thọ Sa di: Rằm/10/1959 Thọ Tỳ kheo: Răm/07/1963 Hạ lạp: 57 năm Trụ thế: 85 năm Viên tịch vào lúc: 07 giờ ngày 28/10/Canh Tý (tức 12/12/2020) tại Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ nhập liệm: 19 giờ cùng ngày tại Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ kính viếng sau đó tại lễ đường Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ tưởng niệm di quan, trà tỳ vào lúc 06 giờ ngày thứ Ba, Mùng 02/11/Canh Tý (tức ngày 15/12/2020 tại Phúc An Viên, Q. 9 *** Cáo Phó và chương trình tang lễ sẽ được phổ biến chi tiết trong thời gian sớm nhất có thể. Chúng con thành kính đảnh lễ Đức Trưởng Lão Hòa thượng Thích Giác Lượng Tân viên Tịch nguyện cầu Giác Linh ngài Cao Đăng Phật Quốc. Na
04/12/2020(Xem: 7020)
Được biết, do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã thu thần viên tịch vào lúc 9g10' sáng nay, 4-12-2020 (nhằm ngày 20-10-Canh Tý), tại trụ sở văn phòng Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hoà (chùa Đức Hoà, số 128 Trần Quý Cáp, P.Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà), hưởng thọ 73 năm, 50 hạ lạp. Hoà thượng tân viên tịch thế danh Trịnh Văn Bảo, sinh năm 1948 tại thôn Mỹ Lợi, xã Ninh Tân, thị xã Ninh Hòa (Khánh Hoà), xuất gia với HT.Thích Viên Nhơn, trụ trì chùa Báo Ân (An Cựu, Huế). Ngài được Hoà thượng Bổn sư ban pháp danh Quảng Thường, tự Ngộ Tánh.
23/11/2020(Xem: 6764)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
22/11/2020(Xem: 3679)
Trong đời sinh ra, ta may mắn được đầy đủ sáu giác quan, đó là đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, đôi tay để cầm nắm, đôi chân để đi, cái miệng để nói và thọ dụng ăn uống, cái mũi để tập thở vào ra, tấm thân khỏe mạnh là không ốm đâu, từ những chức năng trên ta một dạ tri âm, Cha ta và Mẹ ta, vì chính họ cho ta có một cuộc sống bình an, chính là bậc thầy chính hiệu trong gốc rễ huyết thống. Ta sinh ra trên Trần thế, một dạ tri âm, các bậc Thầy giáo, Cô giáo, từ lớp lá, lớp mầm, lớp chồi, và cao quý hơn khi ta học từ cấp một đến Đại học trong trường, hay ở xung quanh, tất cả nhờ vào con chữ.
11/11/2020(Xem: 6594)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]