Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện kể về Hòa thượng gốc Việt lưu nhục thân

21/08/201002:00(Xem: 8386)
Chuyện kể về Hòa thượng gốc Việt lưu nhục thân

Chuyện kể về Hòa thượng
gốc Việt lưu nhục thân

Tại một ngôi chùa Việt ở Bangkok (Thái Lan), nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái vẫn còn nguyên vẹn hình hài sau hơn 50 năm kể từ khi ngài viên tịch.
Tọa lạc tại khu Yaowarat (khu phố Tàu) ở Bangkok, ngôi chùa mang tên rất Việt Nam là Khánh Vân có một lịch sử lâu đời do các Hòa thượng người Việt thành lập. Đây là một trong những ngôi chùa Việt thuộc hệ Annamnikaya hay còn gọi là An Nam Tông ở Bangkok. Chính tại chùa Khánh Vân này, nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái (pháp danh Giác Lượng), một nhà tu hành gốc Việt, được lưu giữ và thờ cúng.

HT Pho Sai
Nhục thân của HT.Thích Phổ Sái .


Được biết, gia đình Hòa thượng Thích Phổ Sái đã sang Thái từ rất lâu, không rõ là khi nào. Bản thân ngài được sinh ra tại Bangkok vào ngày 9/8/1900. Sổ sách gia phả không ghi lại họ cha mẹ đầy đủ của Hòa thượng. Chỉ biết tên của thân phụ ngài được ghi lại theo cách phiên âm của người Thái là Cuôi, còn thân mẫu tên Năng Thẹp.
Theo phong tục của người Thái, người con trai phải xuất gia ít nhất một lần trong đời để báo hiếu cha mẹ, thời gian có thể là một tuần, một tháng, vài tháng hoặc lâu hơn. Ngài cũng theo phong tục ấy mà đến tu tại chùa Hội Khánh (Wat Mongkornsamakom) vào năm 12 tuổi.
Sau một năm, Hòa thượng xin sư trụ trì chùa cho hoàn tục, quay về với gia đình. Tuy hoàn tục nhưng ngài vẫn chăm lo công việc cho nhà chùa. Cứ như vậy, sau 7 năm, tư tưởng Phật giáo đã dần đi sâu hơn vào tâm trí. Đến năm 20 tuổi, ngài xin được xuất gia trở lại.
Thầy Thích Nhuận An (Tăng sinh Việt Nam học tại Thái Lan) cho hay: "Năm 1926, Hòa thượng Thích Phổ Sái được bổ nhiệm đến trụ trì tại chùa Khánh Vân (Wat Upai Ratchabumrung). Đây cũng là nơi Hòa thượng trụ trì cho đến khi viên tịch. Sau khi Hòa thượng Thích Phổ Sái viên tịch được 100 ngày (năm 1958), đệ tử của ngài nằm mơ thấy ngài về báo mộng, nói thử mở quan tài ra xem.
Đệ tử đem chuyện kể với chư Tăng trong chùa. Sau một hồi bàn luận, chư Tăng nhất trí nếu ngài đã báo mộng vậy thì cứ mở ra xem. Khi mở ra thì thấy thi thể của ngài còn nguyên vẹn, chưa bị phân hủy nên quyết định không hỏa táng nữa. Nhà chùa dùng rượu để xoa bóp thi thể cho mềm ra rồi dựng thi thể của ngài ngồi dậy rồi đưa lên gian thờ. Đến nay nhục thân của ngài vẫn được bảo quản nguyên vẹn tại đây".
Theo đó, những Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước khi đã đến Thái Lan mà nghe kể về nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái thì không thể không đến bái lễ. Nhục thân của ngài cũng là một trong những minh chứng lịch sử về sự hiện diện của An Nam Tông trên đất Thái.


Nhục thân hòa thượng gốc Việt trên đất Thái
ht pho sai



Lâu nay, khi nói đến sự để lại nhục thân của các vị thiền sư Việt Nam sau
khi viên tịch, không ai lại không biết đến nhục thân của hai vị thiền sư Vũ Khắc
Minh và Vũ Khắc Trường tại chùa Đậu thuộc tỉnh Hà Tây, Việt Nam. Nhưng có
lẽ ít ai biết đến nhục thân của một vị danh Tăng gốc Việt nam đã để lại nhục
thân của mình tại một ngôi chùa Việt Nam ở Thái Lan. Đó là nhục thân của Hoà
Thượng Thích Phổ Sái trụ trì chùa Khánh Vân tại Bangkok. Dựa trên những tài
liệu hiện còn lưu giữ ở chùa, người viết xin được giới thiệu đến độc giả một số
thông tin về quá trình tu học và hành đạo của Ngài.

Hoà Thượng Thích Phổ sái, Pháp danh Giác Lượng, thế danh Krung
Maturotsakung. Ngài sinh vào giờ Tý, ngày mồng 9 tháng 8 năm 2443 Phật lịch
(1900) tại Bangkok, Thái Lan. Trong sử sách không thấy ghi rõ về gia đình cũng
như những thông tin về gia phả của Ngài. Chỉ thấy ghi lại tên Cha va Mẹ rất đơn
giản mà không thấy đề cập đến Cha và Mẹ của Ngài họ gì ? Sách chỉ ghi lại Cha
tên Cuôi và Me tên Năng Thẹp. Sỡ dĩ thông tin Gia phả trong gia đình của Ngài
không được ghi chép chi tiết cụ thể, do có thể trước đây người viết lại sử liệu này
là người gốc Thái. Vì vậy khi gặp những thông tin về họ tên của người Việt nam,
ít nhiều sẽ gặp khó khăn và lung túng. Một khi phát âm không rõ ràng, từ đó dẫn
đến việc chú âm họ tên (Việt – Thái) cũng không được chính xác. Tuy nhiên, căn
cứ vào những thông tin như tên của Cha và mẹ, bức chân dung của Ngài lúc còn
trẻ, cũng như qua việc Ngài đến xuất gia ở ngôi chùa Việt . . . chúng ta có thể
khẳng định được Ngài là người gốc Việt. Chính bởi xuất thân trong gia đình có
truyền thống Phật Giáo Việt Nam, cũng như trong tâm trạng của những người con
sống xa quê hương, nên việc gia đình cho phép Ngài đến xuất gia ở ngôi chùa Việt
nam cũng là điều dễ hiểu.

Với truyền thống hiếu đạo của Đất nước Phật Giáo Thái Lan, người con trai
phải trải qua một giai đoạn xuất gia ở chùa. Thời gian lâu hay ngắn tuỳ theo phát
nguyện của mỗi gia đình cũng như bản thân của người con khi phát nguyện xuất
gia. Đây được xem là một hình thức trả hiếu đối với cha mẹ. Cùng trong truyền
thống đó, năm 2456 Phật lịch (1913) Ngài phát nguyện đến xin xuất gia ở chùa
Hội Khánh (Wat Mongkornsamakom) do Hoà Thượng Thích Mật Ngôn làm Thầy
Bổn Sư thế phát. Lúc đó Ngài vừa tròn 12 tuổi . Sau 1 năm xuất gia trả hiếu xong,
Ngài đã xin Thầy được hoàn tục. Tuy hoàn tục, nhưng Ngài vẫn tiếp tục sống
trong chùa với hình thức là một cư sĩ phật tử thuần thành. Hằng ngày phụ giúp
những công việc chấp tác trong chùa, cũng như chăm sóc hầu cận Thầy. Trong
suốt gần 7 ở chùa, lời kinh tiếng kệ sớm tối đã dần thấm nhuần và Ngài đã thật sự
hiểu rõ về lý tưởng và tâm nguyện của một người xuất gia. Nên đến năm 20 tuổi,
Ngài đã xin Thầy được xuất gia trở lại và được thọ Đại giới vào ngày 20 tháng

5 năm 2464 Phật lịch (1921) dưới sự chứng minh và truyền giới của tam sư là
Hoà Thượng Thích Mật Ngôn, Hoà Thượng Thích Diệu Lý và Hoà Thượng Thích
Thục Trí .

Năm 2469 Phật lịch (1926) Ngài chính thức được bổ nhiệm đến làm
trụ trì chùa Khánh Vân, ngôi chùa đã gắn liền với Ngài suốt một cuộc đời hành
đạo. Chùa Khánh Vân (Wat Upai Ratchabumrung), một trong 17 ngôi chùa Việt
Nam tại Thái lan thuộc hệ phái Phật Giáo Annamnikaya, mà người Thái vẫn quen
gọi là Annam Nikai (nghĩa là Annam Tông), toạ lạc tại số 864 Charoenkrung,
Taladnoi, Sampantawong, Bangkok, 10100 Thailand. Theo sử liệu ghi lại cho đến
ngày hôm nay, Chùa đã trãi qua 6 đời trụ trì. Hoà thượng Thích Phổ Sái là vị trụ
trì đời thứ 4 từ năm 2469 - 2501 Phật lịch (1926 – 1958), thuộc dòng thiền Lâm
Tế chánh tông đời thứ 42. Trong một khoảng thời gian dài làm trụ trì Ngài đã tiếp
nối sứ mạng của các Bậc Thầy đi trước, ra sức xiển dương Phật Pháp, cũng như
trùng tu và xây dựng chùa chiền. Vốn tư chất rất thông minh, hiền từ và độ lượng
nên Ngài đã cảm hoá được rất nhiều tín đồ Phật tử cả người Việt cũng như người
Thái. Do vậy mà được rất nhiều người biết đến. Không những thế, trong Sơn
Môn , Ngài được chư Tăng trong Annam Tông cảm kích, tín nhiệm và suy tôn
Ngài đảm nhận vai trò lãnh đạo trong Giáo hội Phật Giáo Annamnikaya trong suốt
nhiều nhiệm kỳ. Với cương vị là những người lãnh đạo Giáo hội phật Giáo
Annam Tông, Ngài hết mình tận tụy trong mọi công việc phật sự, với tâm
nguyện làm tốt vai trò kế thừa và phát triển tông phái. Trong tinh thần tuỳ duyên
bất biến, bất biến tuỳ duyên của Đạo Phật, Ngài đã khéo vận dụng những phương
tiện hoá đạo khác nhau để có thể phát triển tông phái một cách hài hoà trên mảnh
đất Thái Lan, một đất nước vốn có truyền thống Phật Giáo Nam truyền mấy nghìn
năm. Chính bởi yếu tố kết hợp hài hoà giữa Phật Giáo Đại thừa và Phật Giáo
Theravada, mà hệ phái Phật Giáo Annam Tông đã dần chiếm được sự ưu ái của
nhiều người dân Thái lan.

Nhận thấy thế duyên đã mãn, sau khi sắp xếp mọi công việc Phật sự trong
Giáo hội, cũng như di huấn lại những gì cần thiết cho các vị đệ tử của mình, Ngài
đã viên tịch vào lúc 21h 15 ngày 21 tháng 4 năm 2501 Phật lịch (1958), trụ thế
58 đời và 37 hạ lạp . Sau khi viên tịch Ngài đã để lại Nhục thân còn nguyên vẹn
trong tư thế kiết già tĩnh toạ. Đây là điều vô cùng đặc biệt mà xưa nay người dân
Thái lan ít ai biết đến. Vì vậy, sự để lại nhục thân của Hoà thượng Phổ Sái có
thể nói đã để lại trong lòng người dân Thái Lan một sự kính ngưỡng vô hạn. Đến
ngày nay Nhục thân của Ngài vẫn còn lưu giữ nguyên vẹn và được tôn thờ tại Tổ
đường chùa Khánh Vân.

Trong những tháng ngày đang học tại Thái lan, người viết được
nhân duyên đến ở tại ngôi chùa Khánh Vân này. Đây được xem là một trong
những ngôi chùa Việt nam được xây dựng và hình thành sớm nhất tại Bangkok,
Thaland dưới hình thức sinh hoạt của hệ phái Phật Giáo Annamnikaya . Như

chúng ta cũng biết, Annam Tông là một hệ Phái Phật Giáo đã được chư vị Tổ Sư
Việt Nam khai sáng và hình thành trên đất nước Thái Lan. Thông qua hình thức
của hệ Phái này, những nét văn hoá, truyền thống của Phật Giáo Việt Nam đã
phần nào được giới thiệu rộng rãi đến người dân Thái. Hình ảnh sáng ngời của
chư vị Tổ Sư trong những ngày đầu truyền đạo như Hoà Thượng Thích Chân
Hưng, Hoà thượng Thích Bảo Ân, Hoà Thượng Thích Mật Ngôn .. . và đặc biệt
qua sự để lại nhục thân của Hoà Thượng Thích Phổ sái đã mang đến cho người
dân Thái lan những hiểu biết hơn về Phật Giáo Việt nam. Khi biết nơi đây hiện
đang còn lưu giữ và tôn thờ Nhục thân của một vị Hoà Thượng gốc Việt, người
viết cố gắng tìm hiểu về nguồn gốc của Ngài với mong muốn giới thiệu đến mọi
người cùng biết. Do vậy đã cố gắng tìm tòi nghiên cứu những sử liệu hiện đang
lưu giữ trong chùa, cũng như tra cứu các bia ký, long vị, hình ảnh và qua một số
thông tin kể lại của những vị Hoà Thượng thuộc Hệ phái Annam Tông hiện nay,
để tìm ra những thông tin tương đối khả dĩ nhất. Tuy nhiên, trong quá trình tìm
hiểu, người viết nhận thấy còn rất nhiều hạn chế. Bởi nguồn sử liệu về Annam
Tông rất ít, nhất là những ghi chép về quá trình truyền thừa của chư vị Tổ Sư cũng
như các vị Hoà Thượng trong tông phái còn rất sơ sài. Hơn nữa, các vị trụ trì sau
này dường như không mấy quan tâm đến vấn đề ghi chép mang tính sử liệu. Ngay
cả việc công bố hay giới thiệu về nhục thân của Hoà thượng Phổ Sái đến công
chúng cũng mang tính nội bộ.

Ai đã một lần có duyên đến chiêm bái nhục thân của Hoà thượng Phổ Sái
có lẽ sẽ cảm nhận được sự mầu nhiệm thiêng liêng khó diễn tả thành lời. Trong
những chuyến hành hương của Chư Tăng Ni cũng như Phật tử trong nước và hải
ngoại đến Thái Lan, khi nghe tin có nhục Thân của một vị Hoà thượng Gốc Việt
còn lưu lại, ai cũng háo hức mong muốn được đến đó để xem thực hư như thế
nào . Trước hương án Tổ đường chùa Khánh Vân, chúng tôi đã chứng kiến không
biết bao lần những dòng lệ xúc động nghẹn ngào của chư Tăng Ni Phật tử khi
được thành kính đảnh lễ Nhục Thân của Ngài. Qua đó, chúng tôi mới cảm nhận
một cách sâu sắc về những giá trị tâm linh cội nguồn. Dù ở phương trời nào đi
nữa thì những giá trị ấy luôn là chỗ dựa tinh thần vững chắc và ấm áp trong lòng
những người con Phật Tử Việt Nam. Bởi lẽ, khi đề cập đến nhục thân của quý
Ngài, chúng ta không thể đo lường bằng những thước đo vật chất, mà nơi đó chứa
đựng những giá trị tâm linh mầu nhiệm. Giá trị ấy là bằng chứng trung thực nhất
để tô điểm cho một cuộc đời hành đạo và chứng đạo. Đối với các nhà khoa học,
điều đó đã tạo nên cho họ không biết bao sự ngạc nhiên lẫn thán phục. Dẫụ đã
trãi qua bao công trình nghiên cứu khoa học nhằm tìm ra một công thức tương đối
nhất. Nhưng tất cả vẫn đang còn là một ẩn số. Điều đó đã là một minh chứng hùng
hồn nhất trong lịch sử tu chứng của các vị Thiền sư việt nam.

Qua bài viết này, người viết không chỉ nhằm giới thiệu đến Phật Tử Việt Nam
chúng ta biết thêm về Nhục Thân của Hoà thượng Thích Phổ Sái, một vị danh

Tăng gốc Việt, đã có công lao rất lớn trong việc duy trì và phát triển hệ phái Phật
Giáo Annam Tông, mà mong muốn có được sự quan tâm nhiều hơn đến một hệ
phái Phật Giáo Việt Nam đã và đang có mặt trên đất nước Thái lan trong suốt thời
gian gần 300 năm qua. Qua đó, hy vọng sẽ đóng góp cho Phật Giáo Việt Nam
cũng như Phật Giáo Thái Lan những sắc thái tôn nghiêm trong tiến trình giao lưu
và phát triển văn hoá Phật Giáo giữa hai quốc gia.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 13540)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 7712)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18617)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5282)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7319)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4389)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17216)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8197)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4676)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5450)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567