Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

HT. Thích Hành Trụ (1904-1984)

03/10/201013:48(Xem: 5515)
HT. Thích Hành Trụ (1904-1984)
HT. Thich Hanh Tru
HT. Thích Hành Trụ
(1904-1984) 

Hòa Thượng pháp danh là thượng Thị hạ An pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42. Thế danh ngài là Lê An sinh năm Giáp Thìn 1904  trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển thân mẫu là bà Nguyển Thị Sử. Ông bà có 3 người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật.

Ngài xuất gia năm 12 truổi ở chùa làng, đến năm 19 tuổi được Hòa Thượng Giải Tường chùa Phước Sơn thế độ làm đệ tử và tu học tại đây. Năm 22 tuổi Ngài thọ tam đàn cụ túc giới và giữ chức thư ký trong chùa.

Với phong cách đĩnh đạt và say mê học hỏi, Ngài đã trau dồi Kinh Luật nội điển cùng quốc văn ở hầu hết các trường hạ, khóa học được tổ chức bấy giờ ở khắp các đạo tràng chùa Thiên Phước Thủ Đức năm 1934, tổ đình Bát Nhã Phú Yên năm 1935…

Gặp lúc phong trào chấn hưng Phật giáo đang phát triển, Ngài vào Nam tham học ở các học đường Lưỡng Xuyên do các Hòa Thượng Khánh Hòa, Khánh Anh, Huệ Quang lãnh đạo.

Năm 1936 Ngài được tiến cử làm giáo thọ sau khóa trường hương do hội Lưỡng Xuyên Phật học tổ chức tại chùa Long Phước, Vĩnh Long. Sau đó Ngài được cử ra Huế học tại Phật học đường chùa Tường Vân, rồi đến chùa Tây Thiên với học Tăng của ba miền tham dự, do Quốc Sư Pháp Huệ làm pháp chủ giảng dạy.

Năm 1940, vì bệnh trầm trọng, Ngài phải trở về Nam điều trị và ở lại giảng dạy tại Ni trường chùa Tam Sơn Phú Nhuận.

Năm 1942, Ngài được tổ Khánh Hòa bổ về Sóc Trăng làm giáo thọ giảng dạy ở chùa Hiệp Châu, chi hội Kế Sách của hội Lưỡng Xuyên Phật học và chùa Linh Giác tại Vĩnh Long.

Năm 1945, Ngài được Hòa Thượng Vạn An đưa về làm giáo thọ giảng dạy tại chùa Hội Phước, Nha Mân, Sa Đéc. Trong thời gian ấy, Ngài làm đệ nhất yết ma đại giới đàn chùa An Phước, Châu Đốc. Sau đó, Ngài về chùa Long An ở Sa Đéc, tại đây đã kết nghĩa huynh đệ cùng ba vị Hòa Thượng Khánh Phước, Thới An và Thiện Tường. Ở Phật học đường này chư tăng khắp lục tỉnh hội tụ về đây tu học rất đông. Xuất thân từ đây có các Hòa Thượng Huệ Hưng, Hòa Thượng Từ Nhơn. . .

Năm 1946, Ngài cùng với ba vị sư đệ kết nghĩa lên Sài Gòn hợp nhau lập nên chùa Tăng Già, nay là chùa Kim Liên, để tiếp độ chúng Tăng tựu về tu học. Đây là Phật học đường đầu tiên ở đất Sài Gòn trong phong trào chấn hưng Phật giáo, mở đường cho các Phật học đường sau này phát triển.

Năm 1947, Ngài lại cùng ba vị sư đệ dựng lên ngôi già lam thứ hai là chùa Giác Nguyên để chuyển chư Tăng về đây tu học, Chùa Tăng Già trở thành trường Phật học dành cho Ni chúng. Hai đạo tràng này ngày thêm vang tiếng và Tăng Ni khắp nơi về học rất đông, đã góp phần lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo tại đất Sài Gòn bấy giờ. Ngài đảm nhiệm giám đốc Phật học đường Giác Nguyên và hóa chủ Phật học Ni trường Tăng Già.

Năm 1948, Ngài mở đại giới đàn tại Phật học đường Giác Nguyên để truyền trao giới pháp cho Tăng Ni thọ trì tu học. Sau đó, Ngài được đề cử làm trưởng ban nghi lễ của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt vào năm 1951, làm chứng minh đạo sư hội Phật học Nam Việt tại chùa Xá Lợi cho đến cuối đời (1956- 1984) và làm trưởng phái đoàn Phật giáo Việt Nam tham dự hội nghị Phật giáo thế giới kỳ 4 tại Nam Vang năm 1957.

Năm 1963, Ngài khai mở Phật học đường Chánh Giác tại chùa Chánh Giác ở Gia Định do Ngài làm giám đốc kiêm trụ trì. Sau đó Ngài về trụ trì thêm chùa Đông Hưng ở Thủ Thiêm và chọn nơi này làm chốn tỉnh tu nhập thất vào những mùa an cư kiết hạ.

Năm 1967 - 1969, Ngài làm giới sư các đại giới đàn Hải Đức ở phật học viện Hải Đức Nha Trang và Quảng Đức ở Phật học viện Huệ Nghiêm Sài Gòn.

Năm 1971, Ngài được suy cử làm phó chủ tịch Hội đồng giám luật Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam Thống Nhất.

Năm 1975-1980, liên tiếp Ngài làm đàn đầu Hòa Thượng tại các giới đàn chùa Ấn Quang do Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam Thống Nhất mở ra để truyền trao giới pháp cho giới tử toàn quốc.

Từ năm 1977- 1981 Ngài kiêm chức Tổng vụ trưởng tổng vụ tăng sự của Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam Thống Nhất.

Năm 1981, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập, Ngài được cung thỉnh vào làm thành viên hội đồng chứng minh trung ương.

Nhận thấy thời gian đồng hành với lão bệnh phát sinh nơi thân tứ đại, từ năm 1976 trở đi, Ngài phát nguyện nhập thất an tịnh cho đến khi về cõi Phật. Vào ngày 29 tháng 10 năm Giáp Tý (1984) huyễn thân Ngài nhẹ nhàng chuyển hóa. Ngài trụ thế 81 năm, được 59 hạ lạp, để lại trong tâm tưởng hàng hậu tấn niềm tri ân vô hạn.

Ngài có công đức lớn trong nhiệm vụ giáo dục đào tạo nhiều thế hệ Tăng tài, và truyền thừa chánh pháp qua việc phiên dịch ấn hành nhiều kinh luật phổ biến với các tác phẩm để lại:

Sa Di Luật Giải

Quy Sơn Cảnh Sách.

Tứ Phần Giới Bổn Như Thích.

Phạm Võng Bồ Tát Giới.

A Di Đà Sớ Sao.

Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên.

Kinh Hiền Nhân.

Kinh Trừ Khủng Tai Hoạn.

Tỳ Kheo Giới Kinh.

Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn.

Long Thơ Tịnh Độ.

Sơ Đẳng Phật Học Giáo Khoa Thư.

Nghi Thức Lễ Phật.

Sự Tích Phật Giáng Thế.

Thật vậy, Ngài là một bậc cao Tăng thời hiện đại, những công hạnh của Ngài luôn là kim chỉ nam không những cho hàng môn đồ pháp quyến mà còn cho cả những ai muốn cùng đi trên lộ trình giác ngộ. Ngài xứng đáng là đấng thạch trụ trong chốn thiền môn. Tự thân với giới đức trang nghiêm đáng là bậc mô phạm cho hàng hậu tấn.

[blockquote]Đối với Giáo Hội, Ngài có công trong việc kiến thiết các ngôi Phật học đường và trực tiếp đào tạo ra những người cộng sự ưu tú cho Đạo Pháp. Và cũng từ những Phật học đường này đã đào tạo những Tăng Ni tài đức, đủ sức tiếp tục con đường mà Chư Phật, chư Tổ đã giao phó. Đối với môn đồ pháp quyến, Ngài luôn là tấm gương sáng để chúng đệ tử noi theo, là người Thầy, người Cha dẫn dắt đàn con trẻ vượt qua mọi thử thách của cuộc đời để cùng đến bến bờ giải thoát, và cũng hoàn thành nguyện hạnh thượng hoằng hạ hóa. [/blockquote]

Chúng con kính nguyện khắc cốt ghi tâm và làm theo những gì Thầy đã chỉ dạy, để mãi mãi đi trên con đường đạo nhằm làm tốt hạnh nguyện tự lợi, lợi tha.

Giờ nầy Giác linh Tôn Sư đang an vui nơi Phật quốc để lại cõi Ta Bà hàng môn đồ chúng con nhiều mến tiếc nhớ thương.

Nhưng than ôi!

Ai tìm vết điểu từ đâu lại
Ai nghe tiếng sáo vọng về đâu

Đầm Tào Khê vằng vặc bóng trăng thâu
Non Thiếu Thất xạt xào rừng mai trúc.

Ngưỡng nguyện Giác Linh Tôn Sư:

Nhập tử sanh như du hý,

Xuất thế mộng tự sát na,

Bất vi bản thệ tái hiện đàm hoa

Tịnh độ Ta Bà vãng lai tự tại

NAM MÔ ĐÔNG HƯNG ĐƯỜNG THƯỢNG TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NHỊ THẾ HÚY THƯỢNG THỊ HẠ AN, TỰ HÀNH TRỤ HIỆU PHƯỚC BÌNH, ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG TÔN SƯ .


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/12/2010(Xem: 4699)
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, Nam Hải Điếu Đồ, sinh trưởng trong gia đình phong kiến quý tộc có nhiều danh vọng, quê gốc ở làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Cha và anh của ông giữ những chức vụ quan trọng trong phủ chúa Trịnh. Thời trẻ ông tập ấm một chức quan võ nhỏ của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Năm 1787, Tây Sơn ra Bắc diệt Trịnh, ông bắt đầu thời kỳ “Thập tải phong trần” (Mười năm gió bụi). Sau ông phục vụ nhà Nguyễn, làm đến Hữu Tham tri Bộ Lễ, từng được cử làm chánh sứ đi sứ Trung Quốc.
30/12/2010(Xem: 4607)
Viết về cụ Nguyễn Du mà chúng ta không nói đến lòng thương vô hạn của cụ đối với chính mình đối với tha nhân, đối với xã hội thì đó là một vấn đề thiếu sót; viết về Nguyễn Du mà không nói đến Phật giáo thì đó cũng là một thiếu sót quang trọng, vì toàn bộ sự nghiệp văn thơ của cụ đều phát xuất từ hai quan điểm này để từ đó cụ gởi gắm tâm sự của cụ lại cho người hậu thế.
27/12/2010(Xem: 5318)
Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử sống cùng bà trong những năm gần đây. Tôi, năm mươi sáu tuổi, nhưng lại là đệ tử mới nhất của bà, mà lại là nam đệ tử. Tôi ở với một nhóm nhỏ đệ tử người Tây phương chỉ mới được mười năm nay, trong khi người nữ đệ tử trẻ tuổi nhất cũng đã có mười lăm năm theo học với bà. Do vị thế ưu tiên của việc “sống lâu lên lão làng” trong tăng đoàn nhỏ bé của chúng tôi, mà các vị nữ đệ tử trẻ này tha hồ chế ngạo cái đầu không tóc, và việc gia nhập tăng chúng muộn màng của tôi. Tôi không màng điều đó chút nào, vì từ những ngày đầu, tôi đã rất hạnh phúc được thân cận “roshi” của tôi, với lòng tin tưởng rằng sự gần gủi, tiếp xúc hằng ngày với bà có thể giúp tôi đi đến ngưỡng cửa tiếp cận tâm linh, nơi ma
24/12/2010(Xem: 7204)
Đại lễ đặt dưới sự chứng minh tối cao của: Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu, Phó Pháp chủ Hội đồng chứng minh GHPG Việt Nam, trú trì Tổ đình Tường Vân – Huế, Trưởng lão Hòa thượng Thích khả Tấn, Thành viên Hội đồng chứng minh GHPG Việt Nam, Giáo phẩm chứng minh BTS GHPG tỉnh Thừa Thiên – Huế, Giáo phẩm chứng minh Môn phái tổ đình Tây Thiên – Huế, trú trì chùa Giác Lâm – Huế. Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Phương, Phó chủ tịch HĐTS Trung ương GHPG Việt Nam, Trưởng ban Trị sự GHPG tỉnh Thừa Thiên – Huế, trú trì Diệu Đế quốc tự, Lam Sơn và Tra Am – Huế. Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Duyên, Thành viên Hội đồng chứng minh GHPG Việt Nam, Ủy viên thường Trực HĐTS Trung ương GHPG Việt Nam, Trưởng ban Hướng dẫn nam nữ cư sĩ Phật tử trung ương, Trưởng ban Trị sự GHPG tỉnh Quảng Nam, trú trì chùa Đạo Nguyên Tam Kỳ - Quảng Nam. Chư tôn đức trong thường trực BTS GHPG tỉnh Thừa Thiên – Huế, chư tôn đức đại diện các môn phái Tổ đình trong tỉnh Thừa Thiên – Huế, chư tôn đức trú trì các
24/12/2010(Xem: 4191)
Niên Biểu Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Chánh Thư ký, Xử lý Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Đệ Tam Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
24/12/2010(Xem: 6698)
Được sự hoan hỷ chấp thuận của Ban Trị Sự Phật Giáo Tỉnh, sự quan tâm giúp đỡ mọi mặt của quý cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền và mặt trận, Ban Hướng Dẫn Phật Tử Tỉnh Thừa Thiên Huế long trọng tổ chức Hội Thảo Hướng Dẫn Phật Tử và Đại Lễ Trai Đàn Truy Niệm Tiền Hậu Công Đức, Sáng Lập Hội Viên, Khuôn Trưởng, Trưởng Ban Hộ Tự, Hội Viên Thiện Nam Tín Nữ, Cư Sĩ Phật Tử, Gia Trưởng, Huynh Trưởng, Đoàn Sinh Gia Đình Phật tử trong tỉnh Thừa Thiên Huế và tưởng niệm Cầu Siêu quá cố Chư vị huynh trưởng nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày thành lập Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Trước hết, thay mặt Ban Hướng Dẫn Phật Tử tỉnh và Ban Tổ Chức Đại lễ chúng con thành kính đảnh lễ niệm ân Chư Tôn Giáo Phẩm Hội Đồng Chứng Minh, Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Chư Tôn Giáo Phẩm, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni. Kính lời chào mừng nồng nhiệt đến chư vị quý khách lãnh đạo các cấp, quý vị nhân sĩ trí thức và toàn thể đồng bào Phật tử các giới. Cung chúc Chư Tôn Giáo Phẩm, Chư Tôn Đức Tăng Ni thế tuế thọ t
19/12/2010(Xem: 9883)
Phật Giáo và A-dục Vương. K. R. Norman (Nguyên Tâm dịch) Hoàng đế Asoka, Con người của hòa bình và tình nhân bản. Minh Chi Đại đế Asoka và sự nghiệp hoằng dương Phật pháp. Thích Quảng Đại Đại đế Asoka Maurya và những pháp dụ khắc trên đá Trần Trúc-Lâm Hoàng đế Asoka giã từ chinh chiến với nỗi thống khổ của người thắng trận. Trần Hương Lan Trường ca Kalinga. Trúc Thiê
19/12/2010(Xem: 14332)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
18/12/2010(Xem: 14816)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minh và dịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
17/12/2010(Xem: 5790)
.Thế là đại hạn đến rồi ! - Giường hạc canh thâu (1) phút mộng tàn, Nghìn thu vĩnh biệt nẻo nhơn gian ! .Thật vậy! - Hóa thân Báo xả siêu sinh tử, Chân tánh quang thu nhập Niết bàn. .Tuy nhiên - Chết chẳng sợ sa đường địa ngục Sống không ham đến ngõ Thiên đàng. Thế thì Người đi đâu ? - Cân bình nửa gánh về quê Phật, Để lại trần gian ngọn Pháp tràng !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567