Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị tổ người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam

23/10/201007:37(Xem: 7560)
Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị tổ người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam

phathoangtrannnhantong_1

ĐỨC VUA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG
VỊ TỔ NGƯỜI VIỆT NAM CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

HT. Thích Trí Quảng

Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.

Qua hơn 90 bài nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông trong cuộc hội thảo kỷ niệm 700 năm ngày Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông Niết bàn, tất cả đều nhận định rằng Ngài là một nhân vật tiêu biểu sáng chói nhất của triều Trần. Không những Đức vua anh minh Trần Nhân Tông ghi đậm dấu ấn sáng ngời qua cuộc chiến thắng thần kỳ chống quân xâm lược Nguyên Mông, thế kỷ XIII, mà đặc biệt hơn cả, Ngài được tôn danh là đấng Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông vì nơi Ngài tỏa sáng tư chất của vị Thiền sư đắc đạo và là vị Tổ đã sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền thuần túy của Phật giáo Việt Nam .

Thật vậy, lịch sử còn lưu dấu ấn son sắt về tài thao lược lỗi lạc của Đức vua Trần Nhân Tông. Năm 21 tuổi, khi Ngài lên ngôi là thời kỳ đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới đã đem quân xâm chiếm, gây kinh hoàng khắp các lục địa Á - Âu. Vậy mà đoàn quân tự hào bách chiến bách thắng ấy đã phải hai lần thảm bại trước tài điều binh khiển tướng của Đức vua Trần Nhân Tông, trong khi lúc bấy giờ Đại Việt của chúng ta chỉ là một nước nhỏ, binh sĩ không đông, vũ khí thô sơ và lương thực không nhiều.

Sau khi đánh thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba, cuối thế kỷ XIII, Đức vua Trần Nhân Tông đã dốc toàn tâm toàn lực cho việc xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Đại Việt, tạo dựng xã hội Đại Việt được ổn định và hướng đến phát triển. Điển hình là Ngài cho mở các nông trang, làm các công trình thủy lợi, chia ruộng đất cho dân chúng, tuyển chọn nhân tài, miễn thuế cho những vùng bị thiên tai hạn hán, bão lụt v.v… Về văn hóa, Đức vua Trần Nhân Tông là người đi đầu trong việc sử dụng tiếng Việt để sáng tác văn học. Hai tác phẩm được vua Trần Nhân Tông viết bằng chữ Nôm là Cư trần lạc đạo và Đắc thủ lâm tuyền thành đạo ca còn lưu truyền đến ngày nay .

Một nét đặc sắc nổi bật của Đức vua Trần Nhân Tông, đó là thái độ khoan dung của Ngài đối với một số quan lại đã viết biểu dâng cho nhà Nguyên xin đầu hàng. Đức vua đã không truy cứu xử tội họ mà ra lệnh đốt bỏ các tờ biểu đó. Tấm lòng rộng mở tha thứ của Đức vua quả là hiếm có, đã cảm hóa được những quan lại phạm tội, khiến họ sanh tâm kính trọng và hết lòng với Đức vua sau này.

Ngoài ra, một điểm đặc biệt nữa là sự cải cách thể chế chính trị đáng kể dưới thời vua Trần Nhân Tông. Chế độ vương hầu hùng cứ một vùng trước đó đã bị bãi bỏ và tất cả quyền hành được thống nhất tập trung về triều đình. Ngài thực hiện việc này một cách khéo léo, mang lại sự an cư lạc nghiệp cho nhân dân, phát triển được đời sống vật chất và tinh thần của người dân, làm lớn mạnh sức đoàn kết của toàn dân với triều đình.

Mười bốn năm trên ngôi vua, năm năm trên ngôi Thái thượng hoàng, Đức vua Trần Nhân Tông luôn luôn là vị minh quân có một không hai trong lịch sử nước ta. Ngài đã tổng hợp được tất cả sức mạnh tinh thần và vật chất của nhân dân Đại Việt để thành tựu được những việc làm lớn lao và tốt đẹp cho nước nhà. Mặc dù phải giải quyết công việc bộn bề của một vị minh quân trong thời kỳ còn nhiều khó khăn của đất nước, nhưng Ngài vẫn quyết chí tu hành. Khi còn là hoàng thái tử, ở tuổi thanh xuân, Ngài đã trường trai và tự khắc phục tất cả những dục vọng. Và đến khi ở trên ngôi vị tuyệt đỉnh đầy đủ thú vui trần thế, Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh tu hành và thường đến chùa Tư Phước trong đại nội để tu tập.

Sau khi hoàn thành trách nhiệm của một vị minh quân đối với giang sơn xã tắc, năm 1929, Ngài từ bỏ ngôi vua một cách nhẹ nhàng, để xuất gia làm nhà tu khổ hạnh, mặc áo nâu, đi giày cỏ, ăn rau rừng, uống nước suối, miệt mài thể nghiệm tinh ba của Phật pháp trên núi Yên Tử. Điều này gợi cho chúng ta cảm nhận rằng Đức vua Trần Nhân Tông là vị Phật hiện thân làm vua ở Việt Nam để cứu giúp nhân dân ta thoát khỏi khổ ách của giặc ngoại xâm thời đó. Vì vậy, đối với Phật giáo Việt Nam, Đức vua Trần Nhân Tông chẳng những là vị đệ nhất Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, mà còn là vị Phật thể hiện trọn vẹn nét đặc sắc của Phật giáo Việt Nam, Phật giáo nhập thế tích cực trên tinh thần "Tùy thuận thế duyên vô quái ngại, Niết bàn sanh tử đẳng không hoa".

Nếu xét về thời điểm xuất gia tu hành, Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông của chúng ta khác với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ. Đức Phật Thích Ca từ bỏ ngôi vị Thái tử rất sớm để dấn thân trên con đường khổ hạnh và Ngài tìm ra chân lý để giáo hóa độ sinh. Trong khi Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông của Phật giáo Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân dẹp giặc ngoại xâm rồi Ngài mới nhường ngôi vua, lên núi Yên Tử tu hành miên mật và trở thành vị Phật của người Việt Nam. Nói cách khác, theo tinh thần Phật giáo Việt Nam, Đức vua Trần Nhân Tông đã lăn xả vào lằn tên mũi đạn, sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả thân mạng của Ngài để bảo vệ đồng bào, giữ gìn quê hương. Nhưng sau khi giữ yên bờ cõi và chăm lo cho trăm dân an vui no đủ rồi, Ngài từ bỏ ngai vàng một cách tự tại ví như vứt bỏ chiếc giày rách vậy. Điều này cho thấy Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông làm vua để mang lại thái bình, thịnh vượng cho toàn dân Đại Việt, chứ không phải để hưởng thụ. Vì vậy, tuy khác nhau ở điểm xuất phát, nhưng Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông cũng hành xử giống như Đức Phật Thích Ca ở điểm từ bỏ cung vàng điện ngọc, dấn thân vào con đường phát huy tâm linh đến tột đỉnh. Đức Phật Thích Ca rời bỏ ngôi vua, đi tìm con đường cứu khổ cho tất cả chúng sinh. Còn Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông sau khi hoàn thành trách nhiệm của người lãnh đạo tối cao thì sẵn sàng cởi áo hoàng bào, giao lại ngôi vua để chuẩn bị trở về nguồn cội Phật tánh của Ngài, trở về thế giới Phật của Ngài. Vì vậy, Đức vua Trần Nhân Tông được nhân dân Việt Nam tôn kính là vị Phật của người Việt Nam.

Với trí tuệ và đạo lực của vị Thiền sư đắc đạo, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đức vua Trần Nhân Tông đã thành công trong việc thống nhất thể chế chính trị theo hình thức trung ương tập quyền. Ngoài ra đối với đạo pháp, Ngài cũng hoàn thành một Phật sự vô cùng đặc biệt, đó là sự thống nhất các hệ phái Phật giáo có trước và khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, đây là lần đầu tiên Phật giáo thời nhà Trần đã thống nhất được Phật giáo và thành lập một Giáo hội duy nhất với một Thiền phái duy nhất của người Việt Nam là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm duy nhất đã phát triển đến đỉnh cao mang đậm nét bản địa của Phật giáo Việt Nam, nhiều chùa tháp của Giáo hội Trúc Lâm được xây dựng, tinh thần học Phật lên cao, người xuất gia tăng nhiều, trong đó có nhiều người thuộc giới quyền quý và hàng cư sĩ quy y Tam bảo cũng nhiều hơn và nhất là ấn hành được Đại tạng kinh…

Thành quả thống nhất đối với đất nước và đạo pháp của Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông gợi cho chúng ta liên tưởng đến điểm tương đồng với Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay. Năm 1975, khi nước nhà được độc lập và thống nhất, thì đến năm 1981, sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam chúng ta cũng được chư tôn thiền đức của ba miền đồng lòng thống nhất trong một Giáo hội Phật giáo Việt Nam duy nhất.

Có thể nói rằng Phật giáo Việt Nam ngày nay đã kế thừa sự nghiệp Phật giáo của Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông 700 năm trước, nghĩa là thể hiện nét son truyền thống của Phật giáo bản địa, Phật giáo Việt Nam của người Việt Nam và do người Việt Nam lãnh đạo.

Tóm lại, Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông là tấm gương sáng ngời của một bậc minh quân lỗi lạc, một vị Tổ sư đắc đạo đầy đủ tài đức, Ngài đã lưu lại những trang sử hào hùng cho đất nước Việt Nam cũng như để lại sự nghiệp vẻ vang cho Phật giáo Việt Nam.

Ngày nay, Phật giáo Việt Nam chúng ta được phước duyên kế thừa trí giác và đạo hạnh của một vị Tổ sư khai sáng và phát triển dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, kế thừa một Giáo hội duy nhất hiện hữu từ thời Trần đã lưu dấu ấn vàng son trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Vì vậy, thiết nghĩ chúng ta tôn thờ Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông là vị Tổ sư đắc đạo của Phật giáo Việt Nam là điều đúng đắn hoàn toàn và rất cần thiết.

Chúng tôi đề nghị Giáo hội Phật giáo Việt Nam chính thức công bố Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông là vị Tổ sư người Việt Nam đã thống nhất Phật giáo Việt Nam cách nay 700 năm; đồng thời, tất cả các chùa Việt Nam cần phải thờ phụng tôn tượng của Đức Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông và hàng năm, trên cả nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam chúng ta nên tổ chức ngày lễ giỗ Tổ tưởng nhớ đến công đức siêu tuyệt của Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông thật long trọng như ngày lễ hội lớn của Phật giáo Việt Nam.

HT.Thích Trí Quảng
(Giác Ngộ)
Ý kiến bạn đọc
26/03/201707:37
Khách
Mật Tông của Đầu Đà Giác Hoàng Điều Ngự Phật là từ Địa Cầu các Phật tử mai sau có thể nhìn thấy Sao Hoả như Một Vầng Sáng Dịu Giữa Ban Ngày .
Nam Mô Đầu Đà Giác Hoàng Điều Ngự Phật .
26/03/201707:31
Khách
Kính gửi Hoà Thượng Thích Trí Quảng ,
Công giáo và Phật giáo rất gần nhau . Lễ Phật Đản và Lễ Phục Sinh đều rất gần nhau . Phật giáo có Mật Tông thì Công giáo có Phúc Âm đều linh diệu . Công giáo quan niệm Vũ trụ tựa như quả trứng còn Phật giáo có thuật ngữ Cõi Vô Minh chia làm Tam Thế.
Bên ngoài " Vỏ Trứng " , Phật giáo gọi là Niết Bàn - Nơi sáng lạn , chẳng có khái niệm về không gian , thời gian và khối lượng nhưng lại có năng lượng vô biên nên nơi đó chỉ có Photons không chuyển động là Năng Lượng của Phật Tổ .Phật Tổ ( bên Công giáo gọi là Chúa Thánh Linh ) là Đấng Duy Nhất có năng lực truyền Photons mà không cần thông qua Trường Vật Chất Tối , là Trường được diễn tả đầy đủ trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh và cụ thể hoá qua thuyết Âm Dương Lưỡng Cực . Biểu tượng của Phật Đản là một " Tay Lái Thuyền Bát Nhã " mà ở chính giữa ta thấy hình dáng của Thuyết Âm Dương Lưỡng Cực nhưng KHÁC ở chỗ Thuyết Âm Dương Lưỡng Cực chỉ diễn tả Trường Vật Chất Tối mà ta gọi là Chân Không còn Thuyết Phật Đản chỉ rõ bằng cách nào Photon chuyển động trong Trường ấy mà vẫn bảo toàn năng lượng hay còn gọi là năng lực Phát Huệ Quang của Thế Hiền Thánh Tăng tức Các Mặt Trời .Cho nên nơi của các Vị Hiền Thánh Tăng là " Vỏ của Vỏ Trứng " , nơi " Bế Một Phần Huệ Quang " nhưng vẫn thấu " nổi khổ của chúng sinh " - Điều này giải thích Năng Lực Giản Ra Và Co Lại của Vũ trụ tuân thủ Bát Nhã Ba La Mật .
Bởi Vật Chất Tối có năng lượng vĩnh hằng nhưng hữu hạn nên đó là nơi ngự trị của Các Đức Phật Tối mà Địa Tạng Vương Bồ Tát là Một Điển Hình cho nên nếu nói Ngự Trong Mỗi Hiền Thánh Tăng là Một Địa Tạng Vương Bồ Tát thật quả không sai . Trước cổng chùa thường có Hai Vị : Ông Ác và Ông Thiện mà khi Ông Thiện " bao trùm " Ông Ác thì trong Chánh điện xuất hiện thêm Một Đức Phật Mới - Vũ Trụ có thể có thêm Một Thái Dương Hệ .
Sở dĩ ta biết Vua Trần Nhân Tông Đắc Phật là vì Ngài đã " Bao Phủ " Đức Thánh Trần Hưng Đạo là Một Đức Phật Tối .
Sự khác biệt lớn nhất giữa Phật Thích Ca Mâu Ni và Đầu Đà Giác Hoàng Điều Ngự Phật là Bồ Đề và Đường Trúc Xanh .
_______
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5402)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 5853)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6869)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5856)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10237)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8264)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13390)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5595)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13375)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6377)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567