Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị tổ người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam

23/10/201007:37(Xem: 8783)
Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị tổ người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam

phathoangtrannnhantong_1

ĐỨC VUA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG
VỊ TỔ NGƯỜI VIỆT NAM CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

HT. Thích Trí Quảng

Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.

Qua hơn 90 bài nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông trong cuộc hội thảo kỷ niệm 700 năm ngày Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông Niết bàn, tất cả đều nhận định rằng Ngài là một nhân vật tiêu biểu sáng chói nhất của triều Trần. Không những Đức vua anh minh Trần Nhân Tông ghi đậm dấu ấn sáng ngời qua cuộc chiến thắng thần kỳ chống quân xâm lược Nguyên Mông, thế kỷ XIII, mà đặc biệt hơn cả, Ngài được tôn danh là đấng Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông vì nơi Ngài tỏa sáng tư chất của vị Thiền sư đắc đạo và là vị Tổ đã sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền thuần túy của Phật giáo Việt Nam .

Thật vậy, lịch sử còn lưu dấu ấn son sắt về tài thao lược lỗi lạc của Đức vua Trần Nhân Tông. Năm 21 tuổi, khi Ngài lên ngôi là thời kỳ đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới đã đem quân xâm chiếm, gây kinh hoàng khắp các lục địa Á - Âu. Vậy mà đoàn quân tự hào bách chiến bách thắng ấy đã phải hai lần thảm bại trước tài điều binh khiển tướng của Đức vua Trần Nhân Tông, trong khi lúc bấy giờ Đại Việt của chúng ta chỉ là một nước nhỏ, binh sĩ không đông, vũ khí thô sơ và lương thực không nhiều.

Sau khi đánh thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba, cuối thế kỷ XIII, Đức vua Trần Nhân Tông đã dốc toàn tâm toàn lực cho việc xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Đại Việt, tạo dựng xã hội Đại Việt được ổn định và hướng đến phát triển. Điển hình là Ngài cho mở các nông trang, làm các công trình thủy lợi, chia ruộng đất cho dân chúng, tuyển chọn nhân tài, miễn thuế cho những vùng bị thiên tai hạn hán, bão lụt v.v… Về văn hóa, Đức vua Trần Nhân Tông là người đi đầu trong việc sử dụng tiếng Việt để sáng tác văn học. Hai tác phẩm được vua Trần Nhân Tông viết bằng chữ Nôm là Cư trần lạc đạo và Đắc thủ lâm tuyền thành đạo ca còn lưu truyền đến ngày nay .

Một nét đặc sắc nổi bật của Đức vua Trần Nhân Tông, đó là thái độ khoan dung của Ngài đối với một số quan lại đã viết biểu dâng cho nhà Nguyên xin đầu hàng. Đức vua đã không truy cứu xử tội họ mà ra lệnh đốt bỏ các tờ biểu đó. Tấm lòng rộng mở tha thứ của Đức vua quả là hiếm có, đã cảm hóa được những quan lại phạm tội, khiến họ sanh tâm kính trọng và hết lòng với Đức vua sau này.

Ngoài ra, một điểm đặc biệt nữa là sự cải cách thể chế chính trị đáng kể dưới thời vua Trần Nhân Tông. Chế độ vương hầu hùng cứ một vùng trước đó đã bị bãi bỏ và tất cả quyền hành được thống nhất tập trung về triều đình. Ngài thực hiện việc này một cách khéo léo, mang lại sự an cư lạc nghiệp cho nhân dân, phát triển được đời sống vật chất và tinh thần của người dân, làm lớn mạnh sức đoàn kết của toàn dân với triều đình.

Mười bốn năm trên ngôi vua, năm năm trên ngôi Thái thượng hoàng, Đức vua Trần Nhân Tông luôn luôn là vị minh quân có một không hai trong lịch sử nước ta. Ngài đã tổng hợp được tất cả sức mạnh tinh thần và vật chất của nhân dân Đại Việt để thành tựu được những việc làm lớn lao và tốt đẹp cho nước nhà. Mặc dù phải giải quyết công việc bộn bề của một vị minh quân trong thời kỳ còn nhiều khó khăn của đất nước, nhưng Ngài vẫn quyết chí tu hành. Khi còn là hoàng thái tử, ở tuổi thanh xuân, Ngài đã trường trai và tự khắc phục tất cả những dục vọng. Và đến khi ở trên ngôi vị tuyệt đỉnh đầy đủ thú vui trần thế, Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh tu hành và thường đến chùa Tư Phước trong đại nội để tu tập.

Sau khi hoàn thành trách nhiệm của một vị minh quân đối với giang sơn xã tắc, năm 1929, Ngài từ bỏ ngôi vua một cách nhẹ nhàng, để xuất gia làm nhà tu khổ hạnh, mặc áo nâu, đi giày cỏ, ăn rau rừng, uống nước suối, miệt mài thể nghiệm tinh ba của Phật pháp trên núi Yên Tử. Điều này gợi cho chúng ta cảm nhận rằng Đức vua Trần Nhân Tông là vị Phật hiện thân làm vua ở Việt Nam để cứu giúp nhân dân ta thoát khỏi khổ ách của giặc ngoại xâm thời đó. Vì vậy, đối với Phật giáo Việt Nam, Đức vua Trần Nhân Tông chẳng những là vị đệ nhất Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, mà còn là vị Phật thể hiện trọn vẹn nét đặc sắc của Phật giáo Việt Nam, Phật giáo nhập thế tích cực trên tinh thần "Tùy thuận thế duyên vô quái ngại, Niết bàn sanh tử đẳng không hoa".

Nếu xét về thời điểm xuất gia tu hành, Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông của chúng ta khác với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ. Đức Phật Thích Ca từ bỏ ngôi vị Thái tử rất sớm để dấn thân trên con đường khổ hạnh và Ngài tìm ra chân lý để giáo hóa độ sinh. Trong khi Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông của Phật giáo Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân dẹp giặc ngoại xâm rồi Ngài mới nhường ngôi vua, lên núi Yên Tử tu hành miên mật và trở thành vị Phật của người Việt Nam. Nói cách khác, theo tinh thần Phật giáo Việt Nam, Đức vua Trần Nhân Tông đã lăn xả vào lằn tên mũi đạn, sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả thân mạng của Ngài để bảo vệ đồng bào, giữ gìn quê hương. Nhưng sau khi giữ yên bờ cõi và chăm lo cho trăm dân an vui no đủ rồi, Ngài từ bỏ ngai vàng một cách tự tại ví như vứt bỏ chiếc giày rách vậy. Điều này cho thấy Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông làm vua để mang lại thái bình, thịnh vượng cho toàn dân Đại Việt, chứ không phải để hưởng thụ. Vì vậy, tuy khác nhau ở điểm xuất phát, nhưng Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông cũng hành xử giống như Đức Phật Thích Ca ở điểm từ bỏ cung vàng điện ngọc, dấn thân vào con đường phát huy tâm linh đến tột đỉnh. Đức Phật Thích Ca rời bỏ ngôi vua, đi tìm con đường cứu khổ cho tất cả chúng sinh. Còn Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông sau khi hoàn thành trách nhiệm của người lãnh đạo tối cao thì sẵn sàng cởi áo hoàng bào, giao lại ngôi vua để chuẩn bị trở về nguồn cội Phật tánh của Ngài, trở về thế giới Phật của Ngài. Vì vậy, Đức vua Trần Nhân Tông được nhân dân Việt Nam tôn kính là vị Phật của người Việt Nam.

Với trí tuệ và đạo lực của vị Thiền sư đắc đạo, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đức vua Trần Nhân Tông đã thành công trong việc thống nhất thể chế chính trị theo hình thức trung ương tập quyền. Ngoài ra đối với đạo pháp, Ngài cũng hoàn thành một Phật sự vô cùng đặc biệt, đó là sự thống nhất các hệ phái Phật giáo có trước và khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, đây là lần đầu tiên Phật giáo thời nhà Trần đã thống nhất được Phật giáo và thành lập một Giáo hội duy nhất với một Thiền phái duy nhất của người Việt Nam là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm duy nhất đã phát triển đến đỉnh cao mang đậm nét bản địa của Phật giáo Việt Nam, nhiều chùa tháp của Giáo hội Trúc Lâm được xây dựng, tinh thần học Phật lên cao, người xuất gia tăng nhiều, trong đó có nhiều người thuộc giới quyền quý và hàng cư sĩ quy y Tam bảo cũng nhiều hơn và nhất là ấn hành được Đại tạng kinh…

Thành quả thống nhất đối với đất nước và đạo pháp của Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông gợi cho chúng ta liên tưởng đến điểm tương đồng với Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay. Năm 1975, khi nước nhà được độc lập và thống nhất, thì đến năm 1981, sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam chúng ta cũng được chư tôn thiền đức của ba miền đồng lòng thống nhất trong một Giáo hội Phật giáo Việt Nam duy nhất.

Có thể nói rằng Phật giáo Việt Nam ngày nay đã kế thừa sự nghiệp Phật giáo của Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông 700 năm trước, nghĩa là thể hiện nét son truyền thống của Phật giáo bản địa, Phật giáo Việt Nam của người Việt Nam và do người Việt Nam lãnh đạo.

Tóm lại, Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông là tấm gương sáng ngời của một bậc minh quân lỗi lạc, một vị Tổ sư đắc đạo đầy đủ tài đức, Ngài đã lưu lại những trang sử hào hùng cho đất nước Việt Nam cũng như để lại sự nghiệp vẻ vang cho Phật giáo Việt Nam.

Ngày nay, Phật giáo Việt Nam chúng ta được phước duyên kế thừa trí giác và đạo hạnh của một vị Tổ sư khai sáng và phát triển dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, kế thừa một Giáo hội duy nhất hiện hữu từ thời Trần đã lưu dấu ấn vàng son trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Vì vậy, thiết nghĩ chúng ta tôn thờ Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông là vị Tổ sư đắc đạo của Phật giáo Việt Nam là điều đúng đắn hoàn toàn và rất cần thiết.

Chúng tôi đề nghị Giáo hội Phật giáo Việt Nam chính thức công bố Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông là vị Tổ sư người Việt Nam đã thống nhất Phật giáo Việt Nam cách nay 700 năm; đồng thời, tất cả các chùa Việt Nam cần phải thờ phụng tôn tượng của Đức Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông và hàng năm, trên cả nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam chúng ta nên tổ chức ngày lễ giỗ Tổ tưởng nhớ đến công đức siêu tuyệt của Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông thật long trọng như ngày lễ hội lớn của Phật giáo Việt Nam.

HT.Thích Trí Quảng
(Giác Ngộ)
Ý kiến bạn đọc
26/03/201707:37
Khách
Mật Tông của Đầu Đà Giác Hoàng Điều Ngự Phật là từ Địa Cầu các Phật tử mai sau có thể nhìn thấy Sao Hoả như Một Vầng Sáng Dịu Giữa Ban Ngày .
Nam Mô Đầu Đà Giác Hoàng Điều Ngự Phật .
26/03/201707:31
Khách
Kính gửi Hoà Thượng Thích Trí Quảng ,
Công giáo và Phật giáo rất gần nhau . Lễ Phật Đản và Lễ Phục Sinh đều rất gần nhau . Phật giáo có Mật Tông thì Công giáo có Phúc Âm đều linh diệu . Công giáo quan niệm Vũ trụ tựa như quả trứng còn Phật giáo có thuật ngữ Cõi Vô Minh chia làm Tam Thế.
Bên ngoài " Vỏ Trứng " , Phật giáo gọi là Niết Bàn - Nơi sáng lạn , chẳng có khái niệm về không gian , thời gian và khối lượng nhưng lại có năng lượng vô biên nên nơi đó chỉ có Photons không chuyển động là Năng Lượng của Phật Tổ .Phật Tổ ( bên Công giáo gọi là Chúa Thánh Linh ) là Đấng Duy Nhất có năng lực truyền Photons mà không cần thông qua Trường Vật Chất Tối , là Trường được diễn tả đầy đủ trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh và cụ thể hoá qua thuyết Âm Dương Lưỡng Cực . Biểu tượng của Phật Đản là một " Tay Lái Thuyền Bát Nhã " mà ở chính giữa ta thấy hình dáng của Thuyết Âm Dương Lưỡng Cực nhưng KHÁC ở chỗ Thuyết Âm Dương Lưỡng Cực chỉ diễn tả Trường Vật Chất Tối mà ta gọi là Chân Không còn Thuyết Phật Đản chỉ rõ bằng cách nào Photon chuyển động trong Trường ấy mà vẫn bảo toàn năng lượng hay còn gọi là năng lực Phát Huệ Quang của Thế Hiền Thánh Tăng tức Các Mặt Trời .Cho nên nơi của các Vị Hiền Thánh Tăng là " Vỏ của Vỏ Trứng " , nơi " Bế Một Phần Huệ Quang " nhưng vẫn thấu " nổi khổ của chúng sinh " - Điều này giải thích Năng Lực Giản Ra Và Co Lại của Vũ trụ tuân thủ Bát Nhã Ba La Mật .
Bởi Vật Chất Tối có năng lượng vĩnh hằng nhưng hữu hạn nên đó là nơi ngự trị của Các Đức Phật Tối mà Địa Tạng Vương Bồ Tát là Một Điển Hình cho nên nếu nói Ngự Trong Mỗi Hiền Thánh Tăng là Một Địa Tạng Vương Bồ Tát thật quả không sai . Trước cổng chùa thường có Hai Vị : Ông Ác và Ông Thiện mà khi Ông Thiện " bao trùm " Ông Ác thì trong Chánh điện xuất hiện thêm Một Đức Phật Mới - Vũ Trụ có thể có thêm Một Thái Dương Hệ .
Sở dĩ ta biết Vua Trần Nhân Tông Đắc Phật là vì Ngài đã " Bao Phủ " Đức Thánh Trần Hưng Đạo là Một Đức Phật Tối .
Sự khác biệt lớn nhất giữa Phật Thích Ca Mâu Ni và Đầu Đà Giác Hoàng Điều Ngự Phật là Bồ Đề và Đường Trúc Xanh .
_______
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/01/2018(Xem: 15368)
Khấp Báo Huynh Trưởng Cấp Dũng Tâm Nghĩa vừa qua đời tại Cali, Hoa Kỳ
10/01/2018(Xem: 11570)
Viên dung hạnh nguyện Bồ Đề, Thong dong giữa cõi, lối về phương duyên. Thác duyên giữa chốn lam thiền, Kim Liên hầu Phật, tịch chiên kinh huyền.
06/01/2018(Xem: 9238)
Chúng tôi có duyên được gặp ông Lý Đại Nguyên từ những năm cuối thập niên 1950, khi đến tham dự những buổi nói chuyện về những vấn đề văn hóa, chính trị và văn nghệ vào những ngày chủ nhật tại Đàm Trường Viễn Kiến (nhà ông Nguyễn Đức Quỳnh trong hẻm cạnh chùa Giác Minh của thượng tọa Thích Tâm Châu, đường Phan Thanh Giản). Khi nhập vào Đàm Trường này, chúng tôi còn là học sinh đệ tứ, đệ tam trường Chu Văn An, nhưng được nghe nhiều nhà văn, nhà báo thuyết trình đủ thứ đề tài , trong đó tôi còn nhớ là thường gặp luật sư Nghiêm Xuân Hồng, nhà văn Mặc Đỗ, nhà báo Hồ Nam, nhạc sĩ Phạm Duy, mấy nhà văn nhóm Sáng Tạo, và mấy người trẻ lớp tuổi tôi như Phan Lạc Giang Đông, Phạm Thiên Thư, Lê Triều Quang... Nhà văn hóa Nguyễn Đức Quỳnh, chủ nhà và người chủ trương Đàm Trường Viễn Kiến, với bộ bà ba nâu, trán cao, dáng thanh thoát thường góp nhiều ý kiến trong những buổi nói chuyện, và người thứ nhì là Lý Đại Nguyên, dáng thư sinh, mặc bộ bà ba trắng thường tổng kết những đề tài thảo luận. Tro
29/12/2017(Xem: 23163)
Giáo Sư Trần Quang Thuận, Pháp danh: Tâm Đức Tự: Trí Không Sinh ngày 02 tháng 7 năm 1930 tại Huế. Đệ tử của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu. Du học và tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Anh. Cựu Bộ Trưởng Bộ Xã Hội, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cựu Nghị sĩ Thượng Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa. Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Hội Ái Hữu Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Thư Ký Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu Kế Hoạch GHPGVNTNHN-HK. Giám đốc Trung Tâm Học Liệu Phật Giáo, California, Hoa Kỳ. Đã cộng tác với nhiều báo chí Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại.
19/12/2017(Xem: 6921)
Trong diễn văn của Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại buổi khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội đã khẳng định: “Việt Nam là đất nước đa tôn giáo mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng Từ bi, hỷ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời phấn đấu vì hạnh phúc an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà Sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời, hộ quốc, an dân. Đặc biệt lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công lao của vị vua anh minh Trần Nhân Tông có công lớn lãnh đạo nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khi đất nước thái bình, Người nhường ngôi từ bỏ giàu sang, quyền quý, tìm đến nơi non cao Yên Tử để học Phật tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm, một dòng Thiền riêng của Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay.”
17/12/2017(Xem: 70056)
Bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển, chiếm tới ba tập khổ lớn trong Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu, mỗi tập trên dưới 1.000 trang, mỗi trang độ 1.500 chữ, tổng cộng khoảng 4 triệu 500.000 chữ (Hán); thường được gọi là Đại Bát Nhã, mang số hiệu 220. Khoảng giữa năm 1973, theo quyết định của Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng gồm 18 vị được thành lập với Hòa Thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban, Hòa Thượng Minh Châu làm Phó trưởng ban và Hòa Thượng Quảng Độ làm Tổng thư ký. Trong kỳ họp tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào những ngày 20, 21, 22 tháng 10 năm 1973 nhằm thảo luận phương thức, nội dung và chương trình làm việc, Hòa Thượng Thích Trí Nghiệm được Hội đồng phân công phiên dịch bộ Đại Bát Nhã 600 quyển này. Thực ra, Ngài đã tự khởi dịch bộ kinh này từ năm 1972 và khi được phân công, Ngài đã dịch được gần 100 quyển. Đây là bộ kinh lớn nhất trong Đại Tạng, đã được Ngài dịch suốt 8 năm (1972-1980) mới xong và đã dịch theo bản biệt
15/12/2017(Xem: 87375)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 137515)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
15/12/2017(Xem: 10234)
Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hòa, môn đồ pháp quyến vô cùng kính tiết báo tin: Hòa thượng Thích Ngộ Trí. Chứng minh BTS GHPGVN thị xã Ninh Hòa. Trụ trì chùa Trường Thọ. Do niên cao lạp trưởng, Hòa thượng đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 14 giờ ngày 12/12/2017 (25/10 Đinh Dậu) tại chùa Trường Thọ, tổ dân phố 10, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trụ thế: 75 năm, Hạ lạp: 47 năm.
27/11/2017(Xem: 23207)
Do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã viên tịch vào lúc vào lúc 04h00 ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017) tại Quảng Hương Già Lam, 498/11 Lê Quang Định, Phường 1, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, trụ thế 86 Xuân Thu, 62 Hạ Lạp. Lễ nhập Kim Quan được cử hành vào lúc 19h00, ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017). Kim Quan được tôn trí tại Quảng Hương Già Lam, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]