Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Nhân Vật Kiệt Xuất Của Á Châu Trong Sáu Thập Niên Qua

22/06/201102:44(Xem: 7479)
Những Nhân Vật Kiệt Xuất Của Á Châu Trong Sáu Thập Niên Qua


NHỮNG NHÂN VẬT KIỆT XUẤT

CỦA Á CHÂU TRONG SÁU THẬP NIÊN QUA
Tâm Hà Lê Công Đa trích dịch




Hình: Theo chiều kim đồng hồ, từ bên trái, phía trên: Freddie Mercury, Đặng Tiểu Bình, Mahatma Gandhi, Lý Tiểu Long, Aung San Suu Kyi, Lakshmi Mittal, Gong Li, Đức Đạt Lai Lạt Ma, Salman Rushdie, Li Ka-shing và Mẹ Teresa.

Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường. Qua những cá nhân xuất chúng này, chúng tôi đã viết nên câu chuyện về sự chuyển mình của một Á Châu đói nghèo thành một trung tâm quyền lực, từ kẻ đi bắt chước trở thành một khuôn mẫu để noi theo, từ một vùng đất bị đô hộ trở thành kẻ dẫn đầu nền kinh tế thế giới bước vào một kỷ nguyên mới. Từ Gandhi đến Rushdie, từ Lý Tiểu Long đến Li Ka-shing, với số đặc biệt thường niên này, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng đến những nhân vật –nam và nữ- đã hình thành nên vận mệnh và thời đại chúng ta.

dalailama-smh

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Deepak Chopra

Vị lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, con người không thuộc về đời sống thế gian nhưng đồng thời lại rất mực gắn bó, dính líu mật thiết với thế gian này. Với sự tinh tế, ngài dạy cho ta một bài học về nhẫn nhục, khiêm tốn và từ bi.

Như một định mệnh, các nhà lãnh đạo tinh thần lớn vừa là ngọn hải đăng vừa là cột thu lôi. Đã không có ai đón nhận cả hai vai trò này một cách nhuần nhuyễn hơn là Đức Đạt Lai Lạt Ma. Là ngọn hải đăng, ngài đại diện cho tiếng nói Phật giáo hầu như trên khắp thế giới vượt ra ngoài cả khuôn khổ Á châu. Được chào đón hoan nghênh ở khắp mọi nơi ngoại trừ chính quê hương mình, được tôn kính vượt lên trên những giới hạn hẹp hòi của chủ nghĩa bè phái, những cuộc thăm viếng của ngài thường quy tụ đông đảo quần chúng. Những gì mà họ khao khát tìm cầu chính là sự hiện diện của ngài và niềm an lạc mà ngài mang đến. Ngài du hành vòng quanh thế giới để nhắc nhở chúng ta về bản thân mình với những ý nghĩ, động cơ cao thượng hơn. Tuy nhiên sự hiện diện của Đức Đạt Lai Lạt Mađồng thời cũng gần gũi và rất mực thế gian. Ngài chẳng khác gì chiếc cột thu lôi cho Tây Tạng, biểu tượng của một đất nước đang nằm dưới ách thống trị của Bắc Kinh. Bao lâu mà sự bất công này còn ngự trị, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ vẫn còn đấu tranh vừa hoà bình lẫn sắc bén.

Hàng thế kỷ qua, Phật giáo đã được truyền bá một cách lặng lẽ hơn bất cứ tín ngưỡng hay triết thuyết nào. Trong cái truyền thống trầm lặng đó, ngài đương kim Đạt Lai Lạt Ma đã đứng một cách vững chãi. Đức Phật đã từng dạy rằng, “Bất cứ ai trông thấy ta là trông thấy giáo pháp, và bất cứ ai trông thấy giáo pháp là trông thấy ta.” Bất cứ lúc nào có dịp may được kề cận Đức Đạt Lai Lạt Ma, thành thực mà nói, tôi đều có cảm giác rằng mình đang được sống trong giáo pháp –và đồng thời giáo pháp cũng đang sống trong tôi. Với bóng dáng từ ái của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người ta cảm nhận sự buông xả mà không phải là sự lãnh đạm, dửng dưng. Đây là sự buông xả được khai sinh ra từ vô lượng nhẫn nhục. Nó được bắt nguồn từ niềm tin sâu xa vào sức mạnh của ý thức. Tôi chưa hề gặp người nào vừa dính líu sâu đậm vào cuộc đời nhưng đồng thời lại không thực sự tin tưởng ở nó như thế. Ngài cũng là người rất mực tinh tế -nếu như ta phải dùng một danh từ như vậy để nói về một con người quá đổi hồn nhiên. Chẳng hạn nếu bạn hỏi ý kiến ngài về một vấn đề gì đó, thông thường ngài sẽ thốt lên: “À. Cái này tốt hơn là tôi phải lắng nghe bạn thôi.” Lập tức bạn cảm thấy một chút gì đó của cái ngã mạn của mình tan biến đi, và tự trong sâu thẳm của tâm hồn, sự khiêm tốn lớn dậy.

(Time, số Apr. 20, 1959)

Như thế đó, tôi trân trọng ngã nón chào Đức Đạt Lai Lạt Ma như là một nhà lãnh đạo tinh thần có sức thu hút lớn lao. Chúng ta sẽ không bao giờ biết được ngài đã góp phần thay đổi thế giới này –và cả chúng ta- đến mức nào, bởi vì chúng ta sẽ không bao giờ nhận ra cho đến khi sự đổi thay đã thực sự xảy ra. Ngài là một trái bom từ bi nổ chậm, và đó chính là cỗi nguồn của sự vĩ đại của ngài.

Deepak Chopra, Tác giả, Giảng sư.

Thich Nhat Hanh

Thích Nhất Hạnh
Vị tăng sĩ Phật giáo đã góp phần vào việc chấm dứt
nỗi khổ đau của cuộc chiến Việt Nam
By Pankaj Mishra (*)
ILLUSTRATION FOR TIME BY ROBERT ANDREW PARKER

Ngày Ngày 11 tháng 6 năm 1963, một tăng sĩ Phật giáo có tên là Thích Quảng Đứcđã nổi lửa tự thiêu trên đường phố Sàigòn để phản đối lại chế độ áp bức kỳ thị của Miền Nam Việt Nam do Mỹ hỗ trợ. Hình ảnh của vị tăng sĩ ngồi an lạc trong thiền định với ngọn lửa quấn lấy thân mình đã trở thành hình ảnh đầu tiên trong số những hình ảnh liên quan đến cuộc chiến Việt Nam , một cuộc chiến lâu dài đã từng làm nhức nhối lương tâm nhân loại. Trong vài năm tiếp theo sau đó, hơn ba mươi tăng sĩ khác đã cống hiến xác thân mình trong cùng một kiểu cách nhằm phản đối lại cuộc chiến vô nghĩa và tàn bạo tại Việt Nam .

Những nỗi khổ đau lớn lao và kéo dài tại Đông Dương cùng với nỗ lực nhằm xoa dịu nó của những người Phật tử trong những năm đó có thể nay đã chìm vào quên lãng, tuy nhiên Thích Nhất Hạnh, người tăng sĩ Việt nam, vị thiền sư với triết thuyết “Phật giáo dấn thân” đã gây cảm hứng cho những nỗ lực này vẫn còn đó với chúng ta. Là một trong những nhà tư tưởng và hoạt động tôn giáo quan trọng nhất trong thời đại này, Thầy Nhất Hạnh, bằng kinh nghiệm cá nhân của chính mình, đã thấu hiểu tại sao những ý thức hệ, và phong trào quần chúng thế tục -những chủ nghĩa quốc gia, phát xít, cộng sản và thực dân- đã gây ra những thảm họa bạo lực không lường trước được của thế kỷ hai mươi. Bài học của Thầy đã được bắt đầu khá sớm với một vài chiến trường đẫm máu như ở Việt Nam, nơi mà người Pháp rồi đến người Mỹ đánh nhau với người quốc gia và cộng sản VN. Thế nên mặc dầu thuộc một truyền thống vốn chuộng sự tĩnh lặng, Thầy Nhất Hạnh đã không thể ngồi yên mà không bị lôi cuốn vào cuộc chiến vây quanh. Thầy có thể thấy được cái nhu cầu khẩn thiết để đưa tinh thần từ bi -một giáo điều quan trọng của Phật giáo- vào một nền văn hoá đang gia tăng cường độ bạo lực. Thầy tin rằng, chiến tranh chỉ có thể chấm dứt bằng cách dập tắt những tình cảm vọng động -sợ hãi, tức giận, khinh miệt, trả thù- như luôn luôn chế dầu vào lửa.

Năm 1965, sau một vụ tự thiêu khác của Phật giáo, Thầy Nhất Hạnh đã viết cho Mục sư Martin Luther King Jr., vị lãnh tụ tranh đấu dân quyền của Mỹ rằng, “những tăng sĩ tự thiêu không hề nhằm đến mục đích tiêu diệt những kẻ áp bức mà chỉ muốn họ thay đổi chính sách. Kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là bất khoan dung, là cực đoan, độc tài, là tham lam, thù hận và kỳ thị- vốn sẵn có trong tâm của mỗi con người.” Thầy Nhất Hạnh đã dẫn dắt Mục sư King, và nói rộng ra, công luận Mỹ chống đối lại cuộc chiến Việt Nam . Những năm cuối thập niên sáu mươi, trong khi sống lưu vong tại Mỹ, Thầy Nhất Hạnh đã trở thành một trong những biểu tượng của phong trào phản chiến. Những bài tham luận của Thầy đã được đăng tải trên những tạp chí hàng đầu của Mỹ, cụ thể như New York Review of Books, những bài thơ của Thầy đã được hát lên như những ca khúc chống chiến tranh, được đệm bằng đàn ghi-ta trong các khuôn viên đại học Mỹ. Có thể nói mà không phóng đại rằng Thầy Nhất Hạnh đã góp phần thúc đẩy Hoa Thịnh Đốn rút lui khỏi cuộc chiến Việt Nam.

Thầy Nhất Hạnh, bây giờ đã tám mươi và hiện đang sống trong một thiền đường tại Pháp, đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu đến với một quần chúng hiện đại đông đảo tại phương Tây. Thầy đã từng viết rằng, “Đừng để mình bị vướng mắc vào bất cứ giáo điều, học thuyết, hay ý thức hệ nào, ngay cả Phật giáo. Tất cả các hệ thống tư tưởng đều chỉ là những phương tiện hướng dẫn chứ không phải là chân lý tuyệt đối.” Trong một thế giới mà các nhà lãnh đạo chính trị từ Hoa Kỳ cho đến Iran hiện đang lớn tiếng kêu gọi dân tộc mình tham dự vào những cuộc chiến ý hệ mới, tiềm ẩn nguy cơ biến thế kỷ này còn tàn bạo hơn cả thế kỷ trước, tất cả chúng ta không thể không quan tâm sâu sắc đến cái tuệ giác của Thầy Nhất Hạnh.

(*) Tác phẩm mới nhất của Pankaj Mishra là Temptations of the West:How to be Modern in India, Pakistan, Tibet, and Beyond

Tâm Hà Lê Công Đa



http://www.time.com/time/asia/2006/heroes/in_hanh.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/01/2018(Xem: 11560)
Viên dung hạnh nguyện Bồ Đề, Thong dong giữa cõi, lối về phương duyên. Thác duyên giữa chốn lam thiền, Kim Liên hầu Phật, tịch chiên kinh huyền.
06/01/2018(Xem: 9230)
Chúng tôi có duyên được gặp ông Lý Đại Nguyên từ những năm cuối thập niên 1950, khi đến tham dự những buổi nói chuyện về những vấn đề văn hóa, chính trị và văn nghệ vào những ngày chủ nhật tại Đàm Trường Viễn Kiến (nhà ông Nguyễn Đức Quỳnh trong hẻm cạnh chùa Giác Minh của thượng tọa Thích Tâm Châu, đường Phan Thanh Giản). Khi nhập vào Đàm Trường này, chúng tôi còn là học sinh đệ tứ, đệ tam trường Chu Văn An, nhưng được nghe nhiều nhà văn, nhà báo thuyết trình đủ thứ đề tài , trong đó tôi còn nhớ là thường gặp luật sư Nghiêm Xuân Hồng, nhà văn Mặc Đỗ, nhà báo Hồ Nam, nhạc sĩ Phạm Duy, mấy nhà văn nhóm Sáng Tạo, và mấy người trẻ lớp tuổi tôi như Phan Lạc Giang Đông, Phạm Thiên Thư, Lê Triều Quang... Nhà văn hóa Nguyễn Đức Quỳnh, chủ nhà và người chủ trương Đàm Trường Viễn Kiến, với bộ bà ba nâu, trán cao, dáng thanh thoát thường góp nhiều ý kiến trong những buổi nói chuyện, và người thứ nhì là Lý Đại Nguyên, dáng thư sinh, mặc bộ bà ba trắng thường tổng kết những đề tài thảo luận. Tro
29/12/2017(Xem: 23122)
Giáo Sư Trần Quang Thuận, Pháp danh: Tâm Đức Tự: Trí Không Sinh ngày 02 tháng 7 năm 1930 tại Huế. Đệ tử của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu. Du học và tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Anh. Cựu Bộ Trưởng Bộ Xã Hội, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cựu Nghị sĩ Thượng Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa. Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Hội Ái Hữu Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Thư Ký Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu Kế Hoạch GHPGVNTNHN-HK. Giám đốc Trung Tâm Học Liệu Phật Giáo, California, Hoa Kỳ. Đã cộng tác với nhiều báo chí Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại.
19/12/2017(Xem: 6901)
Trong diễn văn của Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại buổi khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội đã khẳng định: “Việt Nam là đất nước đa tôn giáo mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng Từ bi, hỷ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời phấn đấu vì hạnh phúc an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà Sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời, hộ quốc, an dân. Đặc biệt lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công lao của vị vua anh minh Trần Nhân Tông có công lớn lãnh đạo nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khi đất nước thái bình, Người nhường ngôi từ bỏ giàu sang, quyền quý, tìm đến nơi non cao Yên Tử để học Phật tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm, một dòng Thiền riêng của Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay.”
17/12/2017(Xem: 69966)
Bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển, chiếm tới ba tập khổ lớn trong Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu, mỗi tập trên dưới 1.000 trang, mỗi trang độ 1.500 chữ, tổng cộng khoảng 4 triệu 500.000 chữ (Hán); thường được gọi là Đại Bát Nhã, mang số hiệu 220. Khoảng giữa năm 1973, theo quyết định của Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng gồm 18 vị được thành lập với Hòa Thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban, Hòa Thượng Minh Châu làm Phó trưởng ban và Hòa Thượng Quảng Độ làm Tổng thư ký. Trong kỳ họp tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào những ngày 20, 21, 22 tháng 10 năm 1973 nhằm thảo luận phương thức, nội dung và chương trình làm việc, Hòa Thượng Thích Trí Nghiệm được Hội đồng phân công phiên dịch bộ Đại Bát Nhã 600 quyển này. Thực ra, Ngài đã tự khởi dịch bộ kinh này từ năm 1972 và khi được phân công, Ngài đã dịch được gần 100 quyển. Đây là bộ kinh lớn nhất trong Đại Tạng, đã được Ngài dịch suốt 8 năm (1972-1980) mới xong và đã dịch theo bản biệt
15/12/2017(Xem: 87125)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 137058)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
15/12/2017(Xem: 10221)
Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hòa, môn đồ pháp quyến vô cùng kính tiết báo tin: Hòa thượng Thích Ngộ Trí. Chứng minh BTS GHPGVN thị xã Ninh Hòa. Trụ trì chùa Trường Thọ. Do niên cao lạp trưởng, Hòa thượng đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 14 giờ ngày 12/12/2017 (25/10 Đinh Dậu) tại chùa Trường Thọ, tổ dân phố 10, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trụ thế: 75 năm, Hạ lạp: 47 năm.
27/11/2017(Xem: 23190)
Do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã viên tịch vào lúc vào lúc 04h00 ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017) tại Quảng Hương Già Lam, 498/11 Lê Quang Định, Phường 1, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, trụ thế 86 Xuân Thu, 62 Hạ Lạp. Lễ nhập Kim Quan được cử hành vào lúc 19h00, ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017). Kim Quan được tôn trí tại Quảng Hương Già Lam, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
26/11/2017(Xem: 6538)
Chấn hưng Phật giáo hay Công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam là một phong trào vận động cho sự phục hưng Phật giáo nhằm tìm lại các giá trị truyền thống và phát triển hoằng bá Phật giáo tại Việt Nam, bắt đầu từ đầu thế kỉ 20. Công cuộc này đã làm thay đổi rất nhiều về nội dung và hình thức hoạt động của Phật giáo tại Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]