Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại lão Hòa Thượng Thích Đồng Huy

25/05/201111:00(Xem: 4233)
Đại lão Hòa Thượng Thích Đồng Huy

Đại lão Hòa Thượng Thích Đồng Huy

HT. Thích Đồng Huy - Thành viên HĐCM, Ủy viên HĐTSTW GHPGVN, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,

Trưởng ban Quản trị Đại Tòng Lâm, Viện chủ Tu viện Vạn Hạnh.



htdonghuy.jpg

I. THÂN THẾ:

Hòa Thượng thế danh Phan Văn Đa, tự Thanh Tùng, pháp danh thượng Đồng hạ Huy, hiệu Trí Thắng (thuộc đời 43 phái Lâm Tế dòng kệ của Tổ Minh Hải - Pháp Bảo). Sinh năm 1919 tại làng Lãnh Đông, huyện Điện Bàng, tỉnh Quảng Nam . Thân phụ là ông Phan Thanh Quyến, thân mẫu là bà Huỳnh Thị Trợ. Gia đình có tất cả 5 người con, hai trai ba gái, Hòa thượng là người con thứ tư trong gia đình. Ngài mồ côi cha từ thuở nhỏ. Năm lên 8 tuổi, Ngài ở với nội và học Hán văn, lớn lên Ngài theo mẹ vào Nam sinh sống.

II. THỜI GIAN XUẤT GIA HỌC ĐẠO:

- Hòa thượng cùng mẹ xa quê hương sống lưu lạc miền Nam và dừng chân trên mảnh đất Phan Thiết (Bình Thuận) bằng nghề thợ may. Sinh trưởng trong một gia đình Nho phong và một lòng kính tin Tam Bảo, cơ duyên Phật pháp đã đến, năm 1938 Hòa thượng vừa tròn 19 tuổi, được sự đồng ý của mẹ cho xuất gia quy y với Thiền sư HƯNG TỪ, pháp danh Thị Lạc, hiệu Hạnh Thiện tại chùa Long Đoàn, núi Trà Cú (Bình Thuận).

- Năm 1942, được sự cho phép của Bổn sư, Hòa thượng thọ giới Sa di tại chùa Hưng Khánh (Bình Định), sau đó theo Hòa thượng Huyền Ý, chùa Liên Tôn (Bình Định) học luật được 1 năm.

- Năm 1943, Hòa thượng đã được trúng tuyển vào học tại Phật Học Đường Lưỡng Xuyên (Trà Vinh).

- Năm 1945, phong trào Cách mạng tháng 8 nổi lên, theo tiếng gọi của Tổ quốc, học Tăng phải ly tán, nhà trường phải tạm nghỉ, lúc bấy giờ Hòa thượng theo hoạt động Việt Minh, tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau khi đình chiến, năm 1955, Hòa thượng trở lại xuất gia và tu học tại chùa Phú Thạnh (Phú Nhuận, Sài Gòn) cầu pháp nhân duyên với Hòa thượng thượng THIỆN hạ HÒA và nhập học tại Phật Học Đường Nam Việt (chùa Ấn Quang, Chợ Lớn, Sài Gòn).

- Năm 1956, được sự đồng ý của Hòa thượng cầu pháp và Ban Giám đốc nhà trường, Hòa thượng được thọ tam đàn Cụ Túc tại chùa Pháp Hội (Chợ Lớn, Sài Gòn) do Hòa thượng thượng HÀNH hạ TRỤ Làm đàn đầu.

- Từ năm 1960-1963, Hòa thượng được Hòa thượng THIỆN HÒA đưa về trụ trì chùa Đại Tòng Lâm thuộc xã Phú Mỹ, quận Long Lễ, tỉnh Phước Tuy (nay là Thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, Bà Rịa Vũng Tàu),

- Năm 1964, Hòa thượng xin theo học lớp chuyên khoa ở Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Ngài được giao phó giữ chức vụ Tri sự cho Bản viện.

III. THỜI KỲ HÓA ĐẠO:

- Năm 1960-1963, Đại Tòng Lâm Phật Giáo đang kiến thiết xây dựng và thiếu người trông coi, Hòa thượng là người lớn tuổi nhất tại Phật Học Đường Nam Việt, sau khi mãn khóa được Hòa thượng THIỆN HÒA điều về trụ trì chùa Đại Tòng Lâm, chăm lo công việc khai khẩn và kiến thiết. Nhưng nhận thấy sự học của mình còn yếu chưa đủ khả năng hoằng dương chánh Pháp, Hòa thượng xin phép Hòa thượng THIỆN HÒA nghỉ chức trụ trì và theo học lớp chuyên khoa Phật Học tại Phật Học Viện Huệ Nghiêm và được giao chức vụ Tri sự chăm lo đời sống kinh tế cho viện.

- Năm 1964-1970, được Giáo hội điều về làm Ban Quản trang An Dưỡng Địa, Phú Lâm, Sài Gòn. Đồng thời là thành viên sáng lập hãng nước tương Vị Trai Lá Bồ Đề tại chùa Giác Sanh, Phú Thọ, Chợ Lớn.

- Năm 1970, khai sơn Tu viện Vạn Hạnh và khai khẩn trên 300 hécta đất tại xã Phú Mỹ để cấp cho Tăng Ni và Phật tử có nơi tu hành và sinh sống.

- Năm 1990, sáng lập chùa Vạn Thiện, Vạn Phước, Vạn An và trùng tu lần thứ nhất Tu viện Vạn Hạnh. Ngoài ra, Hòa thượng còn khai khẩn 20 hécta diện tích đất trên sườn núi Thị Vãi để trồng cây ăn trái và gây rừng, đồng thời còn lập ra nhiều am thất để cho chư Tăng có nơi tu học.

- Năm 1992, Hòa thượng Bổn sư (Thượng Hưng hạ Từ) viên tịch, giao Tổ Đình Pháp Hội cho Hòa thượng nhưng Hòa thượng giao lại cho pháp đệ là Thượng tọa Thích Ấn Chánh trông coi và xây dựng, hướng dẫn chư Tăng, tín đồ tu học.

- Năm 2000, trùng tu lần thứ 2 Tu Viện Vạn Hạnh.

a. Về hoạt động Giáo hội và Xã hội:

Với tinh thần yêu nước và luôn luôn phụng sự đạo pháp trong tinh thần vô ngã vị tha, hướng dẫn Tăng Ni Phật Tử tu học. Ngoài vấn đề cấp đất, xây dựng tự viện cho Tăng Ni tu học, trong giai đoạn này, Hòa thượng đóng vai trò quan trọng và giữ nhiều chức vụ tùy theo hoàn cảnh của xã hội để lèo lái con thuyền Phật Pháp cho tỉnh nhà.

- Năm 1972, được sự tín nhiệm của toàn thể Tăng Ni và Phật tử, Hòa thượng giữ chức vụ Phó Ban Đại diện GHPHVNTN tỉnh Phước Tuy, kiêm Chánh Đại diện Phật giáo quận Long Lễ và Chánh Đại diện khu tự trị Phật giáo làng Vạn Hạnh.

- Năm 1977, Hòa thượng làm Chánh Đại diện Phật giáo huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai. Đồng thời tham gia công tác Mặt trận Tổ quốc và Hội đồng Nhân dân huyện Châu Thành.

- Năm 1981, Hòa thượng là Ủy viên Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai.

- Năm 1986, Hòa thượng làm Phó Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai kiêm Chánh Đại diện Phật giáo huyện Châu Thành.

- Năm 1989, Hòa thượng làm Trưởng Ban vận động mở lớp giáo lý và thành lập trường Cơ Bản Phật học Đại Tòng Lâm.

- Năm 1990, Ngài là Phó ban Giám đốc Đại Tòng Lâm, đặc trách giám luật.

- Năm 1992 cho đến nay, Ngài là Uỷ viên Hội Đồng Trị sự Trung ương GHPGVN, Trưởng Ban Trị sự Phật Giáo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kiêm Trưởng Ban giáo dục Tăng Ni tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu qua 4 nhiệm kỳ.

- Tại Đại hội Phật giáo khoá IV (1997), Ngài được tấn phong Hòa thượng và được suy cử vào Thành viên HĐCMTW GHPGVN. Cũng trong năm này, Ngài được bầu làm Trưởng Ban Quản trị Đại Tòng Lâm.

- Năm 2002, Ngài được bầu làm Ủy viên HĐND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu Khóa III năm 2002-2007..

- Năm 2009, vì tuổi cao sức yếu, nhưng được sự tín nhiệm của Tăng Ni, Ngài vẫn giữ chức Trưởng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khoá IV (2007-2012).

b. Về tổ chức Giới đàn:

 Bằng giới đức trang nghiêm thanh tịnh, mô phạm chốn Tòng Lâm, biểu tượng nơi quy hướng cho Tăng Ni và Phật tử, Hòa thượng đã đảm nhận:

- Đệ Nhị Tôn Chứng Tăng già, Giới đàn chùa Long Hoa, Long Đất, Đồng Nai vào năm 1976.

- Giáo Thọ A Xà Lê, Giới đàn chùa Long Thiền, Biên Hòa, Đồng Nai do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai tổ chức năm 1984.

- Trưởng Ban Kiến Đàn Đại Giới đàn Thiện Hòa I do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức năm 1993 tại Trường Cơ bản Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Giới đàn đã quy tụ trên 2000 giới tử.

- Trưởng Ban tổ chức Đại Giới đàn Thiện Hòa II do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức vào năm 1996 tại Trường Cơ bản Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

- Trưởng Ban tổ chức Đại Giới đàn Thiện Hòa III do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức vào năm 2000 tại Trường Trung cấp Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

- Trưởng Ban tổ chức Đại Giới đàn Thiện Hòa IV do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức vào năm 2003 tại Trường Trung cấp Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

- Hòa Thượng Đàn đầu Đại Giới đàn Thiện Hòa V do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức năm 2006 tại Trường Trung cấp Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

- Hòa Thượng Đàn đầu Đại Giới đàn Thiện Hòa VI do Ban Trị sự  Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức năm 2009 tại Trường Trung cấp Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

c. Về Phiên dịch:

  Ngoài công tác Phật sự đa đoan và hướng dẫn Tăng Ni, Phật tử tu học, Hòa thượng còn dành nhiều thời gian phiên dịch về Luật Tạng để lại cho hậu thế, các bộ sách Ngài đã phiên dịch là:

1. Tứ Phần Luật Tạng 60 quyển

2. Luật Học 01 quyển

3. Tỳ Kheo Ni Sao 03 quyển

4. Luật Học Cương Yếu  01 quyển

5. Tỳ Kheo Giới Bổn Sớ Nghiã  01 quyển

6. Phạm Võng Lược Sớ 10 quyển

7. Tỳ Kheo Tăng Sao. 03 quyển

8. Luật Tứ Phần như thích

9. Yết Ma Đại Cương  01 quyển

10. Phật Học Diễn Giảng

11. Tỳ Kheo Giới Bổn Lược Giải 01 tập

12. Tỳ Kheo Ni Giới Bổn Lược Giải ..01 tập

Ngài là vị Giám Luật nghiêm minh mẫu mực, giới đức và công hạnh của Ngài là tấm gương sáng ngời xứng đáng cho đàn hậu tấn kính ngưỡng noi theo.


IV. THỜI KỲ LÂM BỆNH:

Với 90 năm trên cuộc đời hạnh nguyện vị tha vô ngã, cống hiến cho đạo pháp và xã hội, Ngài là bậc đại thọ của Tăng Già, nào ngờ vô thường một thoáng, kiếp sống tạm bợ mong manh như sương như khói, phút chốc bổng giật mình, nhục thân của Hòa thượng đã mòn mỏi tự bao giờ, Hòa thượng lâm bệnh tuổi già sức yếu. Mặc dù môn đồ Pháp quyến và chư Tôn Đức lãnh đạo Ban Trị sự  Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Tăng Ni các nơi nhứt tâm cầu nguyện, với sự tận tâm chữa trị của bác sĩ cầu mong Ngài sớm bình phục, nhưng vô thường vẫn là định luật nghìn xưa.

  Vào những ngày cuối cùng, Đại Giới đàn Thiện Hòa VI được khai mạc, trên giường bệnh Hòa thượng luôn luôn nhắc nhở và sách tấn theo dõi từng ngày cho đến khi Đại Giới đàn bế mạc và thành công.

Thế nhưng:

“Thân tứ đại phải về nơi tứ đại,
Cõi hồng trần ai cũng phải ra đi.”

Vì tuổi cao sức yếu, Hòa thượng đã thâu thần viên tịch vào lúc 18giờ45 phút, ngày 03-01-2010 (nhằm ngày 19/11/Kỷ Sửu) tại Tu viện Vạn Hạnh, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

Trụ thế: 90 năm - Hạ lạp: 55 năm.

Nam mô Khai Sơn Vạn Hạnh Đường thượng Từ Lâm Tế Chánh Tông tứ thập tam thế huý thượng Đồng hạ Huy hiệu Trí Thắng Hòa thượng Tôn sư chi Giác linh chứng giám.                  


Thay mặt môn đồ pháp quyến
 - Đệ tử Thích Minh Thiện thành kính phụng 






Tu Vien Van Hanh (1)Tu Vien Van Hanh (2)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6935)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 959)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33954)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4731)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4678)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4632)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4593)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4922)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4653)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7588)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567