Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng Niệm Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn

21/10/201004:19(Xem: 6742)
Tưởng Niệm Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn

 
thichtrichon

Một Vì Sao Vừa Khuất

Tưởng Niệm Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn (1933-2011)

 

Huỳnh Kim Quang


 

Trong cõi nhân gian mịt mù tăm tối vì vô minh và phiền não, sự xuất hiện của một bậc chân tu đạo hạnh để dìu dắt con người trên đường tìm về giác ngộ và giải thoát, quả thật không khác gì một vì sao sáng trên bầu trời làm định hướng cho lữ hành trong đêm tối. Trong ý nghĩa này, Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn là một vì tinh tú sáng rực.

Từ khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nơi Pháp Hội Linh Sơn khai thị con đường lớn Nhất Thừa, và mở bày bí mật ngàn đời mà phàm phu chúng sinh không làm sao biết được, rằng trong mười phương thế giới có hằng hà sa số chư Bồ Tát thị hiện bằng cách từ dưới đất vọt lên (tùng địa dõng xuất) để làm Phật sự, trải qua trên hai ngàn rưởi năm, hàng bồ tát vô danh như vậy đã có mặt khắp mọi nơi bằng cách này hay cách khác xiển dương giáo pháp chuyển mê khai ngộ.

Những bồ tát tùng địa dõng xuất đó là những người không cầu danh, không phô trương tướng. Họ như những vì tinh tú lặng lẽ có mặt trong không gian vô biên, rồi cũng âm thầm mất hút trong cõi tịch lặng không cùng. Họ đến và đi như sự xuất hiện của hoa đốm trong không trung. Họ làm vô số việc lành mà thật ra là không làm gì cả, vì họ lúc nào cũng an trú trong cảnh giới vô sở trụ xứ. Những việc thiện mà họ làm không danh, không tướng đó đều là Phật sự. Chẳng phải thế sao? Trong Luận Đại Trí Độ, Bồ Tát Long Thọ nói rằng tất cả mọi việc thiện trên đời này đều bắt nguồn từ Phật tánh, từ bồ đề tâm, vì Phật tánh là cội nguồn của điều thiện, dù là điều thiện ấy được thực hành bởi bất cứ ai, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Không nơi nào khác ngoài Phật tánh có thể xuất sanh ra điều thiện, chỉ vì chúng sinh bị trói buộc trong ngã chấp, pháp chấp tầm thường nên dính mắc vào phân biệt việc thiện của người này, của tổ chức nọ, của tôn giáo kia, v.v… mà không trực nhận ra được bản thể tối hậu của thiệp pháp là Phật tánh đó thôi.

Bồ tát tùng địa dõng xuất vô danh, vô tướng, cho nên những việc làm của họ đều là việc thiện cũng vô danh, vô tướng, nhưng bao trùm khắp mười phương pháp giới, không bỏ sót một hạt bụi, một mảnh vi trần nào. Khi khai phát con đường bồ tát, Phật Giáo đã mở ra đến tận cùng biên tế thời gian và không gian cho sự nghiệp giác ngộ và giải thoát chúng sinh. Thế mới thấy ý nghĩa cực kỳ thâm áo của câu nói trong nhà Thiền rằng, “Bồ tát thị hiện đa phương.” Đa phương là nhiều dạng thức, nhiều phương tiện, nhiều hình thái, nhiều giai kỳ, nhiều quốc độ, là bao phủ lên tất cả mọi hành hoạt thực hiện các thiện pháp. Đa phương cho nên, mới có hình ảnh một Văn Thù Sư Lợi, một Di Lặc, v.v… với oai nghiêm phạm hạnh của bậc xuất gia. Đa phương cho nên, mới có một Duy Ma Cật, một Thắng Man, một A Dục, một Tuệ Trung Thượng Sĩ, v.v… với biểu tướng cư sĩ tại gia mà đạo lực xuất trần.

Ôi, vi diệu thay! Ở trên thế gian này, từ cổ chí kim, có nơi nào có thể dung chứa được diệu nghĩa và hình ảnh siêu việt như vậy chăng, ngoài Phật Pháp?

Nói đến công hạnh “đa phương thị hiện” của một Bồ tát trong thời đại ngày nay, mà đặc biệt tại Hoa Kỳ, người ta không khỏi nghĩ đến hình ảnh một vị Tăng có vóc dáng gầy gò, nhỏ thó mà sức chịu đựng dẻo dai phi thường, đi xe buýt từ tiểu bang này sang tiểu bang khác, từ vùng hẻo lánh này đến vùng xa xôi nọ, để đem giáo pháp Đức Phật truyền bá khắp nơi. Đó là hình ảnh Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn.

Bình sinh, Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn sống một đời bình dị, lặng lẽ, an nhẫn, cặm cụi trong công việc sáng tác, dịch thuật, kiến lập đạo tràng và tiếp Tăng độ chúng khắp nơi. Ngài là vị Tăng Sĩ duy nhất làm được điều mà ít ai làm được, đó là âm thầm, lặng lẽ suốt hơn 6 tháng mỗi năm và trải qua bao nhiêu năm như thế đi đến 15 tiểu bang ở Hoa Kỳ để hướng dẫn Phật tử tu học và tổ chức các khóa lễ vào những dịp lễ lớn như Tết, Phật Đản, Vu Lan. Điều đặc biệt là để tiết kiệm thì giờ và tiền bạc của thập phương thiện tín, Ngài lấy vé máy bay từ California đến một tiểu bang nào đó, rồi từ đây Ngài mua vé xe buýt đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng pháp. Trong thời gian trên máy bay, trên xe buýt và tại các nơi dừng chân, Ngài tranh thủ từng giờ, từng phút sáng tác, dịch thuật kinh điển và liên lạc hướng dẫn việc tổ chức các khóa tu học và lễ lộc trước khi đến. Nghe qua thì tưởng chừng đây là việc dễ làm, nhưng khi đi vào thực hành mới thấy là công việc vô cùng khó nhọc đòi hỏi sự hy sinh, lòng từ bi, lý tưởng phụng sự, và tinh thần khiêm nhẫn. Chẳng hạn, chỉ nói đến việc ăn uống và chờ đợi xe buýt không thôi đã là một khó nhọc mà ít ai có thể kiên trì và hoan hỷ làm được trong nhiều năm trời. Đi máy bay và xe buýt, vì Ngài ăn chay nên việc ăn uống rất hạn chế. Hòa Thượng Nguyên Siêu đã từng đi theo Ngài kể rằng Ngài chỉ ăn mấy gói chip và uống nước lạnh trên những chuyến xe buýt để trừ cơm. Hơn nữa, xe buýt không phải lúc nào cũng có, đặc biệt là xe buýt xuyên bang thì phải theo lịch trình chạy của nó, nên bắt buộc người đi phải chờ đợi cho có chuyến mới đi được. Còn nữa, khi đến nơi, tại những miền xa xôi hẻo lánh của những tiểu bang ít người Việt sinh sống, thì phải đợi cho Phật tử sắp xếp được thì giờ rồi mới đi đón. Nếu chuyến Phật sự vào mùa đông tuyết rơi, mưa đổ, lạnh buốt xương thì còn khổ cực đến ngần nào! Ấy thế mà Ngài đã nỗ lực và tận tụy kiến lập trên 30 đạo tràng, có nơi ngày nay trở thành những ngôi chùa, những tự viện khang trang to lớn. Bất kể là Phật tử đông hay ít, có khi vài ba người, hễ nơi nào có nhu cầu, Ngài đều thân lâm đến để hướng dẫn việc tu học. Điểm đáng kính phục là dù khai sơn nhiều ngôi chùa như vậy, nhưng Ngài không nhận lãnh chức vụ trụ trì cho nơi nào, mà chỉ nhận là lãnh đạo tinh thần, và hoan hỷ việc thỉnh mời chư Tăng có khả năng, có đạo hạnh, có duyên với quần chúng Phật tử về lo Phật sự.

Hết mùa Phật sự ở các tiểu bang xa, những ngày còn lại trong năm, Ngài về an trú trong một căn phòng nhỏ ở Phật Học Viện Quốc Tế, do Cố Hòa Thượng Thích Đức Niệm khai sơn, tại thành phố North Hills, Nam California, Hoa Kỳ. Tại đây, Ngài sống ẩn dật và miệt mài trong việc sáng tác, phiên dịch giáo pháp để làm lợi lạc cho tha nhân. Những năm gần đây, do tuổi cao, sức yếu, Ngài không thể đi hoằng hóa các tiểu bang xa như trước nữa, nên chuyển giao nhiệm vụ này cho một số quý Thầy như Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu hay quý Thầy trong môn phái Linh Mụ.

Người viết bài này, từ khi còn ở Việt Nam vào thập niên 1970 đã nghe quý Thầy và bằng hữu nhắc đến Thầy Trí Chơn, đệ tử của Ôn Linh Mụ, tức Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Đệ Tam Tăng Thống GHPGVNTN. Nhưng mãi đến đầu thập niên 1990 mới có cơ duyên để được gặp Ngài tại Phật Học Viện Quốc Tế và sau đó trong các sinh hoạt của Giáo Hội Hoa Kỳ. Ngài là người ít nói, đặc biệt trong các kỳ hội họp của Giáo Hội, nhưng trí tuệ thì rất sáng suốt, mọi việc đều tinh tường, và lập trường thì vững chãi.

Khi một số quý Thầy và anh em cư sĩ đứng ra thực hiện bộ “Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo,” Ngài là người đầu tiên khuyến khích, chỉ vẽ, và gửi tài liệu đầy đủ. Trong một lần họp GHPGVNTNHK, bàn về việc làm sao duy trì tờ nguyệt san Chánh Pháp, Hòa Thượng phát biểu rằng Giáo Hội chỉ có tờ Chánh Pháp là phương tiện truyền thông để quảng bá Phật Pháp và phổ biến tin tức Phật sự nếu không nỗ lực hy sinh và ủng hộ tài chánh thì làm sao để duy trì. Ngài chính là vị Giáo Phẩm sốt sắng nhất trong việc cúng tiền cho quỹ ấn hành báo Chánh Pháp vào mỗi tháng. Trước khi viên tịch độ mười phút, Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn còn hỏi thăm báo Chánh Pháp.

Như dự tri thời chí, sáng Thứ Hai, ngày 14 tháng 3 năm 2011, Ngài nhờ Hòa Thượng Nguyên Trí chở về Phật Học Viện Quốc Tế để lấy ít đồ đạt cần. Hòa Thượng Nguyên Trí thưa là Ngài yếu lắm không nên đi xa. Nhưng Ngài trả lời rằng đây là lần cuối mà Ngài nhờ, nên Hòa Thượng Nguyên Trí phải chở đi. Đến Phật Học Viện sau khi lấy đồ đạt xong, quý Thầy vì thấy Ngài mệt quá nên thưa Ngài ở lại, Ngài nhất quyết đòi chở về lại Bát Nhã. Sau khi về lại Bát Nhã khoảng vài giờ là Ngài viên tịch.

Chiều ngày 14 tháng 3 năm 2011, anh Nguyễn Thanh Huy đến Chùa Bát Nhã thăm Ngài, sau đó gọi cho người viết nhắn là sức khỏe của Ngài yếu lắm rồi. Người viết suy nghĩ, nếu không đến đảnh lễ Ngài thì e không còn cơ hội. Đến Chùa Bát Nhã khoảng 5:30 phút chiều, người viết vào đảnh lễ Hòa Thượng Trú Trì Thích Nguyên Trí được Hòa Thượng Nguyên Trí cho biết Ngài mệt lắm và có Thượng Tọa Thích Trí Thành từ Canada đang hầu chuyện trong phòng Ngài. Ngồi chờ một lát, người viết gõ cửa phòng Ngài, quý Thầy bên trong hỏi ra:

- Ai đó?

- Dạ con là Tâm Huy.

- Chờ vài phút.

Một vài phút sau, cửa phòng mở. Người viết bước vào, nhìn quanh thấy có đông đảo quý Thầy trong môn phái Linh Mụ Hải Ngoại đứng hầu chung quanh Ngài. Thấy Ngài đang nằm trên giường, nhìn ra, người viết quỳ xuống đảnh lễ. Thầy Trí Thành bảo:

- Tâm Huy vào sát để nghe Ôn dạy. Ôn không nói được lớn đâu.

Bước lại gần Ngài, khom mình xuống, chắp tay, người viết cảm xúc dâng trào. Ngài nói điều gì đó… Vẫn không nghe. Xích lại gần hơn và khom xuống thấp hơn nữa. Người viết nghe Ngài dạy:

- Đã có gửi văn thư thông báo cầu an cho quý Hòa Thượng bị bệnh chưa?

- Dạ, bạch Ôn, Giáo Hội đã gửi văn thư thông báo và xin các tự viện cầu an cho quý Ngài vài ngày trước rồi.

- Nhớ nhắc Vĩnh Hảo đăng tin vào Chánh Pháp số tới nghe.

- Dạ.

Biết Ngài mệt lắm, không dám làm Ngài mệt thêm, người viết lui ra, đứng sau quý Thầy. Một bà cụ, không ai biết từ đâu, bước lại gần Ngài, chắp tay xá. Quý Thầy bảo bà cụ lại gần vì Ôn không nói lớn được. Bà cụ ngần ngại chưa dám lại gần. Quý Thầy khuyên thêm bà cụ cứ lại gần và đảnh lễ Ôn, không sao. Bà cụ lại gần, rồi lấy từ trong túi áo ra một bao lì xì màu đỏ, có lẽ từ hôm Tết còn. Hai tay bà cụ cầm bao lì xì cung kính dâng lên cúng dường Ngài. Nhưng Ngài giơ tay ra dấu không lấy được. Thầy Trí Thành bước tới nhận thay cho Ngài, rồi bảo bà cụ xá và lui ra.

Căn phòng yên lặng. Ngài nằm trên giường, tấm mền đắp lên tới ngực. Mắt vẫn mở và sáng. Quý Thầy đứng yên tịnh, nhìn Ngài. Vị nào cũng trầm mặc và có lễ đang nhất tâm cầu nguyện. Thầy Trí Thành nói khẽ với người viết:

- Thôi, mình ra ngoài một lát hỉ!

Bước theo Thầy Trí Thành ra khỏi phòng. Người viết hỏi nhỏ:

- Thượng Tọa đến hồi nào?

- Chỉ hơn một tiếng.

- Thượng Tọa từ Canada qua thẳng đây?

- Không phải, từ Bắc Cali xuống.

- Con pha trà hầu Thượng Tọa?

- Ừ, được, mình pha trà uống một tí, cho ấm.

Người viết lấy bình trà đi xuống nhà trù súc, đem lên, lục hộc tủ lấy gói trà. Trong tủ nhiều trà quá, không biết gói nào ngon. Hỏi Hòa Thượng Nguyên Trí đang ngồi vào bàn sắp ăn chiều:

- Bạch Hòa Thượng có trà 103 không?

- Không có, nhưng trà trong bịch nylon đó cũng ngon lắm, chế trà đó đi.

- Dạ.

Đang mở bịch để lấy trà bỏ vào bình, người viết nghe có tiếng một vị Thầy thưa với Hòa Thượng Nguyên Trí:

- Bạch Hòa Thượng, Ôn con không xong rồi!

Hòa Thượng Nguyên Trí bỏ đũa xuống, đi nhanh vào phòng của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn. Người viết bỏ gói trà và bình trà chạy ra ngoài sân kiếm Thầy Trí Thành, nhưng không thấy, suy nghĩ chắc Thầy vào phòng Ngài rồi, chạy vội vào.

Quý Thầy đã có mặt chung quanh Ngài. Ai nấy đều chắp tay thành kính niệm Phật: Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật….

Người viết cũng đứng ngay chỗ cửa bước vào và niệm Phật. Nhìn kỹ lại, người viết thấy Hòa Thượng Nguyên Trí và Thượng Tọa Trí Thành đứng sát bên giường Ngài, niệm Phật.

Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn nằm yên. Vài phút sau, tay phải Ngài đưa lên như da dấu chào, giống hình ảnh lúc sinh tiền Ngài hay vẫy tay chào. Thầy Trí Thành đỡ tay Ngài, từ từ thả xuống, xuôi theo thân người. Ngài nằm yên bất động, bình an, như đi vào giấc ngủ, đi vào cõi thiền định tịch diệt vô ngôn. Hòa Thượng Nguyên Trí rờ lên trán, rờ xuống ngực Ngài. Rồi nhìn quý Thầy nói trong xúc động:

- Ngài đi rồi…

 Lúc đó là 6 giờ chiều ngày 14 tháng 3 năm 2011. Quý Thầy tiếp tục niệm Phật. Vài vị, sắp đặt lại bàn thờ Phật ngay trong phòng của Ngài.

 Người viết ra sân Chùa Bát Nhã và gọi điện thoại báo tin Ngài viên tịch cho một số Thầy và bằng hữu quen biết. Trở vô lại, trước phòng Ngài, một số Phật tử, trong đó có một cô người Mễ làm công quả cho Chùa mấy tháng nay, ngồi niệm Phật cùng với chư Tăng Ni. Người viết nhìn vào phòng, Ngài vẫn nằm bất động trên giường, an nhiên tự tại. Người viết chắp tay thành kính đảnh lễ 3 lạy để cung tiễn Ngài vào cõi Niết Bàn.

Ngoài sân Chùa Bát Nhã, bầu trời đã nhá nhem tối. Đêm nay, trên không gian mênh mông kia một vì sao vừa khuất…

 

Hậu học Tâm Huy Huỳnh Kim Quang 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/06/2013(Xem: 6104)
Cái khó nhứt của tôi là viết về cha tôi , một người rất nổi tiếng trong giới nghiên cứu nhạc Việt Nam và Á châu . Nếu viết khen nhiều hơn chê thì thiên hạ sẽ cho là thiên vị, là người trong nhà khen lẫn nhau . Dù ai có muốn nói gì, nghĩ gì, đối với tôi không quan trọng . Tôi viết về cha tôi cũng như tôi đã viết về nhiều nhạc sĩ, ca sĩ khác . Tôi chỉ ghi những gì tôi biết về cha tôi với một cái nhìn khách quan tối đa . Nhân dịp Lễ Các Người Cha (Father's Day), tôi ghi lại một số hình ảnh của một người cha, một người thầy và một nhà nghiên cứu âm nhạc đã mang lại cho nền âm nhạc Việt Nam những hào quang rực rỡ chói sáng trên thế giới mà chưa có ai có thể làm được cho tới ngày hôm nay.
30/05/2013(Xem: 10628)
Trong suốt gần hai nghìn nămhiện diện trên quê hương, chưa bao giờ Phật giáo Việt Nam phải đối diện vớinhững đe dọa và thách thức trầm trọng như trong gần bốn mươi năm giữa thế kỷthứ 20. Đó là giai đoạn mà Phật giáo phải chịu tác động của 3 cuộc khủng hoảnglớn
25/05/2013(Xem: 13883)
Những sự kiện nổi bật nơi Thầy Minh Phát mà chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử quen biết xa gần đều rất khó quên : Nơi các Đại giới đàn, Thầy là vị dẫn lễ thân kính của các giới tử; nơi các đàn chẩn tế trong những ngày lễ hội lớn, Thầy là vị sám chủ uy nghiêm và gây ấn tượng mạnh trong lòng đai chúng; nơi các bịnh nhân, Thầy là vị lương y kỳ diệu, với một chai nước mát Thầy đọc vài câu Kinh ngắn chú nguyện, người bịnh mang về uống là có thể hết bịnh (đã có nhiều người hết bịnh nhờ uống những chai nước mát của Thầy cho); nơi các Tổ đình lớn, trong một số ngày lễ hội, khi cần - thầy là người “đầu bếp tài ba” v.v…
12/05/2013(Xem: 4272)
Lời Người Dịch: Hồ sơ này đã giải mật theo luật Hoa Kỳ -- tuy vẫn còn xóa trắng 2 dòng ở trang 1, và xóa trắng hai trang 3 và 4 -- sẽ cho thấy cách nhìn từ chính phủ Mỹ về tình hình Việt Nam trong thập niên 1960s. Hồ sơ này cho thấy đánh giá từ phía tình báo Hoa Kỳ về Thầy Thích Trí Quang và hoạt động của Phật Giáo VN trong năm 1966, tức là ba năm sau khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân. Một vài đánh giá trong bản văn này bây giờ đã thấy là không chính xác, khi Mỹ dựa vào suy đoán để gán ghép một mục tiêu chính trị nào đó cho một hay nhiều vị sư. Tuy nhiên, bản văn này cho thấy cái nhìn từ phía tình báo Hoa Kỳ đối với Phật Giáo trong tình hình lúc đó đang gay gắt, và sẽ chiếu rọi thêm một phần vào lịch sử phong trào Phật Giáo.
23/04/2013(Xem: 9036)
Quyển NGỮ LỤC này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư DUYÊN LỰC trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời. Cứ hằng tháng Ngài cho mở một khóa tu bảy ngày ở mỗi Thiền đường cho các hành giả tu Thiền, gọi là “đả thiền thất” để hướng dẫn đại chúng chuyên sâu trong sự nghiệp tu hành. Những lời dạy trước sau đều được đồ đệ ghi âm lại để làm tài liệu tham khảo.
23/04/2013(Xem: 5309)
Như đã kết thiện duyên từ thuở ấy, Giọt mưa trời tưới ngọt đất Hồ Nam. Tiêu phụ thân và từ mẫu họ Nhan Dòng vọng tộc, làm quan Thanh triều đại.
22/04/2013(Xem: 5885)
Kể từ khi loài người biết phát huy trí tuệ, chúng ta thấy rõ có hai khuynh hướng phát triển, khuynh hướng hướng nội và khuynh hướng hướng ngoại. Khuynh hướng hướng ngoại, gọi là ngoại quan, tức quan sát sự hiện hữu và diễn tiến của sự vật bên ngoài giúp cho con người có được nhận thức đúng đắn về sự sống của hiện tượng giới.
22/04/2013(Xem: 16042)
Ba năm về trước, khi bổn-sư (và cũng là chú ruột) của tôi là cố Hòa-Thượng Ðại-Ninh THÍCH THIỀN-TÂM viên-tịch, trong buổi lễ thọ tang ngài tôi có dâng lời nguyện trước giác-linh Hòa-Thượng cầu xin ngài chứng-minh và gia-hộ cho tôi - vừa là đệ-tử và cũng là cháu ruột của ngài - được đầy đủ đạo-lực cùng minh-tâm, kiến-tánh thêm hơn để nối-tiếp theo gót chân ngài, hoằng-dương pháp môn Tịnh-độ nơi hải-ngoại ....
17/04/2013(Xem: 4961)
Con, Tỳ kheo ni Hạnh Thanh, vừa là môn phái Linh Mụ ; nhưng thật ra, Ôn, cũng như con và cả Đại chúng Linh Mụ đều là tông môn Tây Thiên pháp phái. Vì Ôn Đệ tam Tăng thống tuy Trú trì Linh Mụ quốc tự, nhưng lại là đệ tử út của Tổ Tâm Tịnh, Khai sơn Tổ Đình Tây Thiên, được triều Nguyễn dưới thời vua Khải Định sắc phong là Tây Thiên Di Đà tự. Ôn Cố Đại lão Hòa thượng Đôn Hậu có cùng Pháp tự chữ Giác với quý Ôn là Giác Thanh, trong Sơn môn Huế thường gọi là hàng thạch trụ Cửu Giác và có thêm một hàng gọi là bậc danh tăng thạc học Cửu Trí (Chỉ cho các ngài Trí Quang, Thiện Minh, Thiện Siệu v..v...) Cố đô Huế là vậy ; đó là chưa kể nơi phát sinh ra danh Tăng ưu tú ngũ Mật nhị Diệu (Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Thể, Diệu Huệ và Diệu Không) và cũng là nơi đào tạo tăng tài, xây dựng trường Đại học Phật giáo đầu tiên không những chỉ cho Huế mà cả miền Trung việt Nam nữa. Ở Huế thường kính trọng các bậc chơn tu thực học, đạo cao đức trọng nên thường lấy tên chùa để gọi pháp
11/04/2013(Xem: 7976)
Một con người với nhiều huyền thoại bao phủ theo từng bước đi, dù ngàn năm trôi qua nhưng dấu ấn vẫn còn đong đầy trong tận cùng tâm thức, hạnh nguyện độ sanh vẫn lớn dần theo nhịp tử sinh, in dấu trên từng hoá độ, kỳ bí trong vô cùng không tận, không ngôn ngữ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Một sự lặng thinh phổ cập trên từng đường nét, chỉ có cõi lòng thành kính tri ơn, nhớ ơn, biết ơn, được nhân dân tôn thờ lễ bái
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567