Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong

16/04/201108:04(Xem: 5936)
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong

 TT_Thich_Chon_Kien_2


Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong

Kính dâng TT Thích Chơn Kiến
Kính chia buồn cùng Thầy Nguyên Tạng

 



September 13, 2006

Kính lạy thầy,

Trước mắt con là di bút Thầy để lại, nét chữ thân quen với màu mực còn đậm nét tinh khôi.

Nghiệp đã qua rồi lòng nhẹ nhõm
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong

Thầy vừa an nhiên xã bỏ báo thân, dãi mây bạc giờ nương theo gió loãng tan mất dấu. Nẻo sinh tử Thầy thong dong qua lại, như đi trên những dặm đường quen để gieo trồng hạt giống từ bi, giáo hóa, độ sinh. Thân bệnh Thầy mang trong những năm tháng sau này, cho con biết rõ vô thường tất đến. Vậy mà nỗi đau đớn, bàng hoàng vẫn khơi động trong con khi đón nhận tin xa, bởi từ đây con vĩnh viễn mất Thầy trong kiếp sống này.

Nơi ngôi chùa xưa mang tên Vạn Đức tại thành phố biển Nha Trang, Thầy- chú bé dường như đã sẵn đủ túc duyên, thế phát xuất gia khi còn để chỏm. Hình ảnh chú điệu mới lên mười với đôi mắt sáng, khuôn mặt thơ ngây như phảng phất vẽ trầm tư của một ngưòi mang chí nguyện nhập thế, nỗ lực tinh tấn tu tập để mai sau phục vụ cho đạo pháp, đem lợi lạc đến quần sanh, đã là nguồn khích lệ vô biên cho con tỏ lòng kính ngưỡng, noi theo. Dấu chân Thầy đã đi qua cùng khắp những ngôi chùa từ Nha Trang đến Saigon, Bình Tuy, Diên Khánh, Tuy Hòa... để tham cầu học đạo và lần lượt thọ giới Sa Di, giới Tỳ Kheo tại những giới đàn ở chùa Hoa Quang, chùa Hải Đức, Hoa Nghiêm.

Duyên lành đưa đến một ngày, cho bước chân Thầy dừng lại ở ngôi chùa nhỏ, đã mục nát tang thương cùng với thời gian trong bối cảnh chiến tranh năm 1972. Sự hiện diện của Thầy như thắp sáng niềm tin vào tam bảo, thu phục ngày càng nhiều những người con Phật tìm về. Nhờ vào oai nghi và đức độ của Thầy mà nhiều bàn tay góp lại, những tấm lòng phụng sự đạo pháp mở ra, tạo phương tiện tu bổ, xây dựng lại ngôi già lam hầu có chỗ tham cầu, tu học cùng Thầy. Cũng ở chính ngôi chùa Thiên Phú nhỏ bé, đơn sơ thuở đó, con có phước duyên được Thầy đón nhận vào.

Thầy kính thương,

Làm sao con nói hết những tháng năm đã trôi qua cùng với nhiều thăng trầm biến đổi không ngừng. Con làm sao quên được, những năm đầu của thập niên 80 như thoáng hiện đâu đây, mỗi khi con nhớ nghĩ về Thầy, về mái chùa xưa. Những bữa cơm đạm bạc được dọn lên mời Thầy, mang vị lạt lẽo hay mặn đắng, mà Thầy trò đã san sẻ cho nhau qua sự nấu nướng vụng về của ba chú điệu chưa đến tuổi thành niên. Mặc cho mưa nắng dãi dầu, trên con đường có bụi đất mịt mù hay lầy lội ướt trơn, Thầy và các đồ đệ nhỏ đã oằn mình trên chiếc xe đạp mong manh chở trầm hương, hay những bao lá khuynh diệp, lá tràm khi không còn tiền mua trầm về xay để làm nhang độ nhật và mua hoa đèn về cúng Phật. Nửa đêm, Thầy còn đạp xe đạp, tay cầm chiếc đèn pin, lang thang cùng khắp trên những con đường ngập bùn xình để đi tìm đứa đệ tử xay trầm chưa thấy trở về. Nhà máy cúp điện phải đi xa hơn nữa và bánh xe bể lốp giữa đường đêm, thật không còn sự chọn lựa nào, bởi cả thảy Thầy trò bằng mọi cách phải có hương liệu để trộn vào mọt cưa, lăn thành cây nhang trong buổi sớm mai, sau đó phơi khô, gói lại đem đi bán. Cơm không đủ no, áo không đủ ấm nhưng đó là những tháng năm ấm nồng tình thương và đạo pháp mà Thầy đã ban cho, đã dụng công dạy dỗ, luyện rèn các môn đồ. Khi không còn khả năng mua được trầm hương, Thầy đã tìm đến chùa Thiền Quang để xin hòa thượng trụ trì lá cây khuynh diệp trong đất chùa về làm hương liệu. Lá khuynh diệp rồi cũng hết, xuôi bước chân Thầy đi xa hơn về phía Sông Lô, nơi có rừng tràm bát ngát tỏa mùi hương dìu dịu. Lá tràm khô xay nhuyễn trộn làm nhang. Con biết thêm điều lạ, và cũng từ chính nơi Thầy, con học hạnh nhẫn nhục và tinh tấn không ngừng, qua việc làm độ nhật hằng ngày.

Bài học vỡ lòng cho con mở mắt, thấy mình là một với thiên nhiên. Những nhọc nhằn trong công việc hằng ngày như không thực có, bên cạnh Thầy và cảnh trí nên thơ, hùng vĩ của Sông Lô. Biển pháp mênh mông trước mặt. Bóng Thầy là dáng núi lặng lờ, sừng sững uy nghi ở phía sau lưng như chở che con từng mỗi phút giây. Thầy nghiêm như núi, lòng bao la từ hòa như sóng biển rì rào. Con có thể an tâm vừa làm việc vừa tận dụng không bỏ sót một khoảnh khắc nào để tu tâp trong chánh niệm. Thầy lặng yên mà như đang giảng cho con nghe bài pháp không lời. Con chợt biết mình có phước duyên rất lớn khi được cận kề bên cạnh ân sư, tấm gương ngời sáng để con noi theo từ thuở mới vào chùa và cho đến hết đời này.

Công hạnh và oai nghi Thầy thắp sáng, phật tử tìm đến chùa ngày càng nhiều nên việc phật sự càng trở nên bề bộn. Bên cạnh sự giáo dưỡng nghiêm từ, Thầy không ngần ngại tạo cơ hội cho đệ tử tham cầu, du học nơi xa, dù biết rằng mỗi khi một đệ tử rời chùa, phần Thầy sẽ gánh vác nhọc nhằn hơn. Quen nép dưới bóng Thầy như đứa con nép bên bóng mát tình thương của người cha, con nghĩ Thầy luôn cảm nhận được lòng quý kính, thương yêu đáp lại, dù có thể Thầy không nhìn Thấy giọt nước mắt âm thầm đọng lại, khi đứa học trò từ biệt xa Thầy, xa ngôi chùa hằng ấp ủ những năm tháng được cùng Thầy sẻ chia từng chút khổ vui. Thầy ở lại sau khi giáo dưỡng và ươm trồng hạnh nguyện, cho con làm hành trang tiếp tục đi trên cuộc hành trình mà Thầy đã và đang đi để tự độ và độ tha, giác ngộ và giải thoát. Những trường lớp từ Phật học cơ bản, cho đến trung cấp và cao cấp Phật học, đã đẩy đưa trôi giạt đệ tử của Thầy xa mịt mù xa. Lòng con có lúc thoáng ngậm ngùi, bởi không còn đường để trở về thăm viếng, vấn an, kề cận chăm sóc Thầy khi bệnh yếu.

Thầy kính thương,

Dù ở tận bên này bờ đại dương xa thẳm, mỗi lúc nghĩ về Thầy con luôn thấy ấm lòng. Chạnh thương Thầy với thân bệnh hoành hành, nhưng không ngừng nghỉ trong nỗ lực kêu gọi, vận động xây dựng nhằm phát triển và mở rộng ngôi chùa Thiên Phú hầu phật tử có nơi tu học, tăng thân có chốn nương thân, đem chánh pháp trao truyền lại cho những người con Phật. Thầy cũng không quên việc tổ chức gầy dựng gia đình Phật tử, tạo môi trường cho những người trẻ gieo trồng hạt giống bi, trí, dũng làm hành trang vào đời với đầy đủ trí tuệ, từ bi. Tuệ Tĩnh Đường trong khuôn viên chùa cũng được hình thành, để những người dân nghèo quanh đó được khám bệnh và bốc thuốc hoàn toàn miễn phí. Đôi tay thầy ngày càng yếu nhưng chí nguyện Thầy bền vững, kiên trì để có được ngôi chùa Thiên Phú rộng rãi, uy nghi giống ngày nay. Tu viện Phước Sơn được hình thành vào năm 2000 cũng là do tâm nguyện hằng ấp ũ của Thầy, để Phật tử quanh vùng có nơi quy tập, tìm về nương tựa bên ngôi tam bảo. Từ đó những người hữu duyên có cơ may được dắt dìu đi vào đạo lộ của hành trình vượt qua bể khổ tử sinh.

Với 59 năm trụ thế, và 49 năm nhập đạo, Thầy không ngừng cống hiến, phụng sự đạo pháp cho đến giờ phút sau cùng dù thân bệnh hoành hành. Đạo tràng Pháp Hoa từ đây vắng bóng Thầy, chúng đệ tử chừng ngơ ngác, bởi quen chờ để được nghe từng thời pháp của Thầy. Quyễn Kinh Nhật Tụng Thầy biên soạn năm nào còn vang âm hưởng, làm thương tiếc ngập lòng người ở lại mỗi khi đọc tụng. Đường trần Thầy vắng bóng từ đây, nhưng dưới mái chùa Thiên Phú Thầy vẫn luôn ngời sáng, luôn hiện diện trong tâm tưởng của hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia. Tháng Bảy, năm nhuần, muà Vu lan báo hiếu con mất thầy vĩnh viễn từ đây.

Thầy kính thương,

Ngôi chùa Thiên Phú yêu thương hằng ấp ũ một thời con nép dưới bóng Thầy, hay tu viên Phước Sơn mà Thầy đã bỏ nhiều tâm sức ra gầy dựng, dường như thoáng có, thoáng không. Với con, di bút Thầy để lại là cả tấm lòng vì đạo pháp một đời. Một đời hành đạo của Thầy gói ghém lại bấy nhiêu cũng đủ cho con. Làm sao có thể đáp đền ơn muôn một của ân sư đã giáo dưỡng cho con muôn kiếp thoát tử sinh, làm ánh đuốc sáng dẫn đường cho con tiến bước. Tủ kinh sách và chỗ ngủ đơn sơ trong căn phòng nhỏ, là tất cả những gì Thầy có bên mình trong cỏi tạm này. Chút trăn trở, băn khoăn còn lại, Thầy bình thản an bài, sắp xếp mọi điều để chúng đệ tử thừa hành, tiếp tục sứ mạng truyền đăng tục diệm sau khi Thầy trả lại báo thân.

Hướng về phương trời xa, một lạy này con kính cẩn dâng Thầy. Ngưỡng nguyện noi gương ân sư con sẽ vì lợi ích của muôn loài mà tu tập, hành trì để tự độ và độ tha. Thầy dù ra đi nhưng mãi mãi vẫn bên con, như dãi mây bạc thong dong qua bầu trời rộng. Con tin rằng Thầy sẽ chọn sinh tử làm chốn đi về, trong hạnh nguyện hội nhập ta bà, phổ độ quần sanh.


Nguyên Thảo
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5605)
Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi.
09/04/2013(Xem: 5818)
Hòa Thượng thế danh Phan Công Thành, pháp danh Nguyên Trạch, tự Chí Công, Hiệu Giác Lâm, thuộc đời thứ 44 dòng thiền Lâm Tế, pháp phái Liễu Quán.
09/04/2013(Xem: 18650)
TUỆ SỸ, MỘT THIÊN TÀI CỦA VIỆT NAM : Thầy xuất gia từ thuở còn thơ và sống ở Lào, làm chú tiểu Sa Di sớm chiều kinh kệ, công phu bái sám, đó là bổn phận của người làm điệu, trong nếp sống nhà chùa. Dù chùa ở Lào hay Việt Nam cũng vậy, tụng kinh học luật là điều chính yếu của người xuất gia tu Phật. Bằng bản chất thông minh, thiên tư từ thuở nhỏ, cho nên sau khi xuất gia, Thầy đã miệt mài học hỏi kinh điển, siêng năng nghiên cứu nghĩa lý đạo mầu. Có lần được nghe quí Ngài kể lại, thời gian sống nơi chùa Lào, suốt ngày Thầy ở dưới bàn tượng Phật Bổn Sư thờ nơi chánh điện, để học kinh luật, sưu tra luận nghĩa, mà quí sư Lào sau một thời gian dạy dỗ, đã thấy được trí tánh thông minh của Thầy......
09/04/2013(Xem: 5650)
Khi viết về ông, tôi vẫn còn nguyên xúc động của lần đầu ra xứ Bắc tìm dấu tích về nhà trí thức Phật học này cho công trình biên khảo Chư tiền bối hữu công mà tôi đang thực hiện.Những mãng huyền thoại về cuộc đời của ông tôi được nghe qua nhiều người kể lại, mỗi nơi một ít, mỗi người thuật mỗi cách, đã gây cho tôi nhiều trăn trở, nghĩ suy và qua đó cảm nhận sâu sắc hơn về một nhân vật nhiều tài năng mà cũng đầy bất hạnh này.
09/04/2013(Xem: 5298)
Hòa Thượng Thích Thiện Thanh, thế danh Nguyễn Văn Sắc, nguyên quán làng Phú-Nhuận-Nha-Mân, tỉnh Sa-Ðét miền Nam nước Việt, sinh Năm Ất Hợi (1935). Song thân Ngài là Cụ Nguyễn Văn Xướng và Cụ Bà Huỳnh Thị Thâu.
09/04/2013(Xem: 5882)
Hòa thượng họ Võ, húy Trọng Tường, Pháp danh Tâm Phật, tư Tri Đức, hiệu Thiện Siêu, Hòa thượng sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Dậu (1921) trong môt gia đình thâm Nho tín Phật ở làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, thành phố Huế. Thân Phụ là C ông Võ Trọng Giáng, thân mẫu là Cụ bà Dương Thị Viết. Hòa thượng là con trưởng trong một gia đình có 6 anh em: 3 trai, 3 gái. Người em kế cũng xuất gia, đó là cố Thượng tọa Thích Thiện Giải, nguyên là Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Lâm Đồng; Trú trì chùa Phước Huệ - Bảo Lộc.
09/04/2013(Xem: 7091)
Thầy xuất thân trong một gia đình kính tín Tam bảo. Thầy là con út trong gia đình gồm 6 anh chị em. Cha là cụ Ông Lâm Sanh Thảo, một nhà trí thức yêu nước; Mẹ là cụ Bà Trần Thị Năm, một phật tử thuần túy và cũng là một người Mẹ mẫu mực đảm đang.
09/04/2013(Xem: 10116)
Thượng tọa Thích Chơn Thanh, thế danh Phan Văn Bé, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1949 tại xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Kiến Phong, nay là tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là Cụ ông Phan Văn Vinh, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Mến. Thượng tọa có 06 anh em, 2 trai 4 gái, Ngài là anh cả trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 21590)
Cuộc đời tu tập và hành đạo của Thầy Minh Phát là bức tranh minh họa hiện thực sinh động lời dạy của Ðức Phật: “Này chư Tỳ kheo! Hãy du hành vì an lạc, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư Thiên và loài người”.
09/04/2013(Xem: 9529)
Thuở nhỏ lòng ưa cửa Ðạo, mến chuộng nếp áo phước điền, ngưỡng trông tịnh xá Kỳ Viên, tha thiết lòng cầu xuất tục. 16 tuổi, xuất gia học đạo chùa Tây An, Châu Ðốc trước tiên, gần quý Thầy hiền, trau dồi Phật tuệ, bang sài vận thủy, tu sửa đạo tràng; 27 tuổi, cầu thọ tam đàn. Kể từ đó tinh chuyên tu niệm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567