Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Gặp gỡ nhạc sĩ lão thành Hằng Vang

25/03/201109:12(Xem: 6887)
Gặp gỡ nhạc sĩ lão thành Hằng Vang


Nhac Si Hang Vang 2

ĐPNN: Là một trong những nhạc sĩ PG đầu tiên được ghi nhận công lao đóng góp cho văn hóa PG trong quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo của cố HT.Thích Thiện Hoa, NS Hằng Vang từng đoạt giải nhất cuộc thi sáng tác Phật nhạc do GHPGVNTN tổ chức, trao giải thưởng ngày 25-2-1965 tại nhà hát lớn Sài Gòn. Các trung tâm văn hóa PG trong và ngoài nước đã xuất bản hơn 20 album của NS Hằng Vang theo các hình thức cassettes-CD-VCD ca nhạc, kinh nhạc và 20 album cassettes-video-CD-VCD-DVD cũng như 8 tuyển tập ca nhạc đứng chung với nhiều tác giả khác.

Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật Nguyễn Đình Vang, pháp danh Như Niên, nguyên là Huynh trưởng GĐPTVN, Chánh Thư ký kiêm Đặc ủy Thanh niên tỉnh GHPG Phú Bổn năm 1968-1975. Nhắc đến NS Hằng Vang là nhắc đến bài ca Ánh Đạo Vàng lừng danh, đáng liệt kê vào dòng nhạc bất hủ của PGVN trong mọi thời kỳ và đi vào tâm khảm nhiều thế hệ Phật tử theo từng thời gian.

Sau gần 60 năm phụng sự Phật pháp qua âm nhạc, NS Hằng Vang vẫn một lòng giữ gìn giới hạnh trường trai và là một Phật tử lão thành, gương mẫu. Để hiểu thêm về NS Hằng Vang, An Lạc đã có cuộc trò chuyện với NS nhân cả nước đang hướng về 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Được biết sự nghiệp sáng tác nhạc Phật giáo của Nhạc sĩ có thể đúc kết thành hai giai đoạn, từ 1950-1970 và từ 1980-2010. Song song với công việc sáng tác, NS còn tham gia lĩnh vực hành chánh Phật sự và sinh hoạt GĐPT. Xin NS cho biết thêm về giai đoạn trước năm 1975.

HV: Từ năm 1958 đến năm 1960, tôi làm Trưởng tiểu ban Văn nghệ và Liên Đoàn trưởng GĐPT Cát Tường, Thành Nội Huế. Từ năm 1961 đến năm 1967 là Phó Trưởng ban Hướng dẫn - Ủy viên Nghiêm huấn-Quyền Trưởng ban Hướng dẫn GĐPT Daklak, Tổng Thư ký, Biên tập điều hành văn nghệ PG Đài phát thanh Ban Mê Thuột, phát sóng hàng tuần và những kỳ lễ lớn của PG. Từ năm 1968 đến năm 1975 là Tổng thư ký Hội Văn nghệ sĩ Phú Bổn. Đặc Ủy Thanh niên kiêm Ủy viên văn nghệ PG tỉnh Phú Bổn.

Ngoài bài hát Ánh Đạo vàng nổi tiếng và bài Lời sám nguyện được giải nhất cuộc thi sáng tác Phật nhạc năm 1965, cũng như những chùm nhạc ngắn phục vụ sinh hoạt GĐPTVN, NS cho biết có sáng tác những thể loại nào khác không?

blankHV: Tôi sáng tác nhạc, kịch từ năm 1955. Tôi có những kịch ngắn cho các buổi trình diễn văn nghệ GĐPT. Ngoài ra tôi còn sáng tác thể loại Trường ca Phật sử (Đản sanh-Xuất gia-Thành đạo) và Lửa từ bi bừng sáng (ca ngợi chư Thánh tử Đạo và Bồ tát Quảng Đức). Về kịch dài thì có Khai nguồn sáng, Thái tử Câu Na La và Quán bên sông.

Về thể loại nhạc trình diễn, xin nhạc sĩ cho biết trong số tác phẩm được công bố, NS ưng ý ca khúc nào nhất?

HV: Có thể tạm thống kê chưa đầy đủ là con số 300. Một con số chưa nhiều trong suốt một quãng đời hơn nửa thế kỷ sống và phụng sự chánh pháp. Nhưng có lẽ với tôi tất cả đều được rút từ tâm nguyện sâu thẳm của tâm hồn người con Phật dành cho văn hóa văn nghệ PG và GĐPTVN. Vì vậy tôi nghĩ con số ấy cũng là tiếng nói của một người nhạc sĩ PG chân chính, giúp tôi tự tin và sống “tri túc” trong niềm tin chánh pháp. Cuộc sống còn dài, sức lực sáng tác của tôi chưa dừng lại dù tuổi đời hay định luật vô thường có thể bất chợt, nhưng con số ấy nhất định sẽ còn tiếp tục ra đời trong sự đón nhận chân thành của mọi người như khi xưa đón nhận Ánh Đạo vàng của tôi.

Như đã nói, những tác phẩm của mình ra đời từ chính tâm nguyện chân thành dành cho Phật pháp, nên rất khó nói những tác phẩm nào ưng hay không ưng ý. Dù vậy, cũng xin tạm nêu ra đây 6 bài hát là dấu ấn cho hai giai đoạn trải dài hơn 50 năm qua, đó là Ánh Đạo vàng, Lửa Từ bi, Lời sám nguyện, Về thăm chùa Huế, Sáng tỏa hoa Đàm, và Lửa sáng niềm tin.

Trong suốt cuộc đời cống hiến cho văn nghệ Phật giáo, chắc hẳn NS gặp nhiều Tôn đức khích lệ tinh thần. Nhân vật nào để lại ấn tượng trong lòng NS nhất?

HV: Những vị mà tôi luôn cảm kính tri ân thì nhiều. Ấn tượng nhất vẫn là Hòa thượng (HT) Thích Thiện Hoa, HT.Thích Trí Thủ, HT.Thích Đức Thiệu, HT.Thích Thiện Siêu, HT.Thích Hải Ấn, HT.Thích Thông Bửu, Thượng tọa (TT) Thích Đồng Bổn, TT.Thích Chân Tính, Đại đức (ĐĐ)Thích Nhật Từ và ĐĐ.Thích Huyền Lan…

Là một NS chỉ chuyên sáng tác và phục vụ Phật Pháp, kể từ sau năm 1965 đến nay, đã có thêm giải thưởng hay vinh danh nào cho NS không?

HV: Tôi sống với mục đích cống hiến cho Phật đạo, dẫu có hay không những phần thưởng ấy thì tôi vẫn là Hằng Vang như thuở nào. Tôi cảm thấy hạnh phúc khi được sự tin tưởng của chư tôn đức lãnh đạo PGVN. Được đồng bào Phật tử và nhất là có chư Long Thiên Hộ Pháp “chứng nhận” là tôi mãn nguyện lắm rồi. Sống-Cống hiến-Phục vụ là phương châm của tôi. Các thứ khác tôi không quan tâm lắm.

NS nghĩ gì khi giới văn nghệ sĩ PG đã gọi NS bằng danh hiệu “NHẠC SĨ 50 NĂM PHẬT GIÁO”?

HV: Đó thật sự là phần thưởng rất thú vị! Anh em văn nghệ sĩ nói đến danh hiệu ấy bằng tấm lòng của họ về những gì tôi đã sống và phục vụ. Tôi trân trọng danh hiệu quần chúng này. 

NS có dự tính gì cho riêng mình cũng như ước mơ một nền tảng văn nghệ PGVN mai sau không?

HV: Là một NS trường chay, tôi không có tham vọng xa xôi. Tôi ước mơ được sống khỏe, tiếp tục phục vụ văn nghệ PG đúng nghĩa. Tôi mong sao lãnh đạo GHPGVN, đặc biệt là Ban Văn hóa PG T.Ư và Ban Văn hóa PG các tỉnh thành quan tâm giá trị của văn nghệ PG, tạo môi trường thuận lợi cho văn nghệ PG được phát triển, nhờ đó, anh em văn nghệ sĩ PG có cơ hội sáng tác và phụng vụ GH và quần chúng.

Xin cảm ơn NS đã có buổi trò chuyện thú vị này.

Source: Dao Phat Ngay Nay

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6645)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6944)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 997)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33973)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4750)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4686)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4647)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4597)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4931)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4657)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567